Hoạt động này nhằm giúp nông dân đa dạng hóa cây trồng, tăng độ che phủ cho vườn cà phê, tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, giảm phát thải khí nhà kính.
Hàng trăm hộ nông dân được hỗ trợ cây giống tại xã Chư Đăng Ya. Ảnh: Đ.L.
Trong khuôn khổ dự án “Thúc đẩy ứng dụng phương thức sản xuất cà phê bền vững theo hướng giảm phát thải khí nhà kính trong vùng nguyên liệu của Chi nhánh Công ty Cổ phần Mascopex tại tỉnh Gia Lai”, dự án được tài trợ bởi Tập đoàn JDE Peets. Công ty Mascopex Chi nhánh Gia Lai đã phối hợp với Trung tâm phát triển cộng đồng (CDC) tổ chức cấp phát 4.000 giống cây mắc ca và cây rừng cho nông dân 2 xã Chư Đăng Ya và Ia Ka (huyện Chư Păh tỉnh Gia Lai).
Các cây giống được chọn lựa kỹ để đem đến tay bà con nông dân những cây to khỏe nhất. Cũng trong dịp này, các chuyên gia CDC phối hợp với chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu và phát triển hồ tiêu Gia Lai, hướng dẫn về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây măc ca cho nông dân để việc trồng và chăm sóc cây đạt hiệu quả cao.
Những cây giống tốt nhất được trao đến tay bà con. Ảnh: Đ.L.
Ông Đỗ Ngọc Sỹ, Giám đốc bền vững của JDE Peets chp biết JDE Peets mong muốn đồng hành và đóng góp một phần vào việc hỗ trợ phát triển sinh kế, nhằm thúc đẩy phát triển bền vững tại địa phương. Dự án này chủ yếu hỗ trợ cây giống cà phê và một số loại cây ăn trồng xen, cây ăn quả và cây rừng. Thời gian tới, dự án sẽ hỗ trợ cây cà phê và các loại cây trồng khác.
“Theo kế hoạch trong giai đoạn từ 2022 đến 2025, số lượng cây cà phê được cấp phát khoảng 150.000 cây đến từ các chương trình hỗ trợ của địa phương và khoảng 8.000 cây trồng xen và cây rừng được dự án hỗ trợ. Hoạt động này góp phần quan trọng cải thiện cảnh quan, bảo vệ môi trường, hướng đến canh tác cà phê bền vững, gắn với mục tiêu sản xuất giảm phát thải”, ông Sỹ cho biết.
Nhiều hộ dân là đồng bào dân tộc thiểu số dần thoát nghèo nhờ được Hội Nông dân hỗ trợ con giống, tạo điều kiện tiếp cận các nguồn vốn để làm ăn.
Trao niềm vui đến với nông dân
Từ năm 2022 đến nay, với mục tiêu phát triển kinh tế hộ, đặc biệt là các hộ nghèo người dân tộc thiểu số, Hội Nông dân các cấp huyện Chư Păh (tỉnh Gia Lai) đã triển khai các mô hình sinh kế cho hội viên nghèo, khó khăn như: Tặng 34 con lợn giống với tổng trị giá trên 54 triệu đồng cho 17 hội viên ở các xã Ia Khươl, Hòa Phú, Ia Mơ Nông, Ia Nhin, Đăk Tơ Ver và thị trấn Ia Ly; tặng 62 con dê giống với tổng trị giá trên 186 triệu đồng cho 17 hội viên tại các xã Hà Tây, Ia Khươl, Nghĩa Hòa; tặng 1 con bò trị giá 15 triệu đồng cho hội viên xã Phú Hòa; tặng 1.000 cây mắc ca và 2 tấn phân cho 20 hội viên xã Hà Tây; triển khai mô hình trồng ổi Đài Loan (65 cây ổi) trị giá 3 triệu đồng tại thị trấn Phú Hòa và hỗ trợ 8 hộ nuôi cá bằng lồng tại làng Kênh, Tum, Yut (xã Ia Phí)…
Cũng trong thời gian trên, các cấp Hội Nông dân từ xã đến huyện còn phối hợp với các ngân hàng hỗ trợ giải ngân cho bà con nông dân vay vốn đầu tư phát triển sản xuất. Theo đó, đã có trên 307 tỷ đồng đến được tay 4.629 hộ nghèo có nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất.
Tại xã Ia Nhin, thời gian qua, nhiều hội viên nông dân rất vui mừng khi nhận được sự hỗ trợ về cây, con giống và tiếp cận với các nguồn vốn vay để phát triển kinh tế gia đình. Ông Hoàng Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ia Nhin cho biết, Hội đã hỗ trợ 6 cặp heo giống cho 6 hội viên nghèo phát triển kinh tế và hỗ trợ 3.000 cây cà phê, 500 cây mắc ca, 1.000 cây bời lời cho hội viên. Ngoài ra, Hội còn triển khai chuỗi liên kết sản xuất cà phê 4C với hơn 500 hội viên tham gia, thành lập nông hội sầu riêng của xã…
“Các mô hình hỗ trợ sinh kế là động lực để các hộ nghèo, cận nghèo phát triển kinh tế gia đình. Hiện nay, Hội chỉ còn 13 hộ hội viên nghèo, cận nghèo. Năm 2024, Hội sẽ phấn đấu giảm 4 – 5 hộ hội viên nghèo”, ông Thắng cho biết thêm.
Ông Võ Xuân Bảo, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Păh cho biết, thời gian đến, Hội Nông dân huyện tiếp tục nhân rộng các phong trào thi đua lao động sản xuất, đoàn kết giúp nhau thoát nghèo; đẩy mạnh phát triển quỹ hỗ trợ nông dân các cấp; phối hợp với các ngân hàng giải quyết cho nông dân vay vốn, sử dụng vốn vay có hiệu quả; tiếp tục ký kết với các doanh nghiệp cung cấp vật tư, phân bón theo phương thức trả chậm cho hội viên nông dân đầu tư mở rộng sản xuất.
Song song đó, phối hợp với cơ quan chuyên môn mở các lớp dạy nghề và hỗ trợ việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân; mở các lớp tập huấn, xây dựng mô hình chuyển giao khoa học kỹ thuật, thông tin về thị trường cho hội viên nông dân…
Thoát nghèo từ những chú dê con
Niềm vui đến với gia đình chị Rơ Châm Nguên (làng Tơ Vơn 2, xã Ia Khươl) từ năm 2022 khi được Hội Nông dân huyện hỗ trợ 4 con dê giống để phát triển kinh tế. Sau đó, bản thân chị còn được tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc dê do Hội Nông dân xã tổ chức. Nhờ được chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn dê của gia đình chị phát triển ổn định.
Chị Nguên cho biết: “Gia đình tôi thuộc diện hộ nghèo. Do thiếu đất sản xuất, hàng ngày, vợ chồng tôi phải đi làm thuê để có tiền trang trải cuộc sống. Năm 2022, gia đình được Hội Nông dân huyện hỗ trợ 4 con dê giống và hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc. Đến nay, đàn dê của gia đình tăng lên 15 con. Vừa rồi, tôi bán 3 con để mua sắm các vật dụng cần thiết. Số dê còn lại tôi sẽ tiếp tục duy trì để nhân đàn và cố gắng vươn lên thoát nghèo”.
Bà Rơ Châm Mep bên chuồng dê 9 con. Ảnh: Đăng Lâm.
Cũng ở làng Tơ Vơn 2, gia đình bà Rơ Châm Mep cũng được hỗ trợ 2 cặp dê giống. “Năm nay tôi gần 70 tuổi rồi, sức khỏe giảm sút nên không làm nương rẫy được. Nhờ sự hỗ trợ của Hội Nông dân huyện nên đến nay gia đình đã có được 9 con dê. Tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ của Hội Nông dân”, bà Mep bộc bạch.
Ông Phạm Quý – Chủ tịch Hội Nông dân xã Ia Khươl cho biết, từ năm 2022 đến nay, từ nguồn hỗ trợ của cấp trên, Hội đã triển khai các mô hình hỗ trợ sinh kế gắn với cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững”. Đến nay, Hội đã hỗ trợ 14 cặp heo giống cho 7 hộ, 20 con dê cho 5 hội viên và tổ chức tập huấn về công tác khuyến nông cho 300 hội viên.
Ngoài ra, Hội còn làm cầu nối giữa Ngân hàng Chính sách Xã hội với 6 tổ vay vốn cho 232 hội viên vay với tổng dư nợ hơn 9,2 tỷ đồng để đầu tư phát triển kinh tế và nhân rộng các mô hình sản xuất. Bên cạnh đó, từ nguồn vốn ủy thác 450 triệu đồng của Quỹ Hỗ trợ nông dân Trung ương, Hội Nông dân xã đã giải ngân cho 10 hội viên vay để triển khai dự án trồng, chăm sóc sầu riêng.
Ông Võ Xuân Bảo, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Păh cho biết, thông qua các phong trào và việc làm thiết thực, Hội Nông dân các cấp đã trở thành điểm tựa vững chắc giúp hội viên phát triển kinh tế.
Diện tích trồng mắc ca ở các tỉnh Tây Nguyên đang tăng lên chóng mặt trong khi hiệu quả từ loài được cho là “cây tỉ đô” này lại không như kỳ vọng.
Khảo sát tại nhiều vườn mắc ca của người dân ở Đắk Lắk và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho thấy cây ra hoa nhiều, cho rất ít trái, rụng nhiều.
Trồng 14 năm không ra trái
Hiện vườn cây của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) có 6 ha trồng xen với cây cà phê, 4 ha trồng thuần nhưng tất cả đều rất ít trái. Những cây ước tính đạt 3-4 kg quả rất ít, còn lại chỉ có mấy chục trái. Ngoài ra, trái lớn bằng đầu ngón tay cũng rụng nhiều.
Cây giống mắc ca ở Tây Nguyên đang được lùng mua, đẩy giá lên cao
TS Trần Vinh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên, cho biết: Từ năm 2012, viện đã bắt đầu trồng thử nghiệm nhiều loại giống mắc ca trên diện tích 10 ha tại TP Buôn Ma Thuột và một số diện tích khác ở các huyện trong tỉnh Đắk Lắk. Tại diện tích trồng ở Buôn Ma Thuột, cây cho trái nhiều nhất chỉ đạt 10 kg/cây, còn những cây không ra trái hoặc cho khoảng 0,2-0,3 kg/cây chiếm tỉ lệ lớn.
Cần phải cân nhắc trước khi trồng cây mắc ca
Trong khi đó, tại huyện Krông Năng – nơi được xem có điều kiện phù hợp nhất tỉnh Đắk Lắk cho cây mắc ca sinh trưởng, phát triển – cây cũng đậu trái rất ít. Gia đình bà Nguyễn Thị Thanh ở xã Phú Lộc, huyện Krông Năng hiện có 50 cây mắc ca trồng xen cà phê sang năm thứ 6; năm ngoái cho thu hoạch được khoảng 100 kg hạt; năm nay ra hoa rất nhiều nhưng đậu trái rất ít.
Cạnh nhà bà Thanh, vườn mắc ca của gia đình anh Nguyễn Văn Nguyên được xem là mô hình điểm, thường xuyên đón các đoàn công tác về thăm nhưng thực tế cho thấy sản lượng không đạt hàng chục kg/cây như lời đồn thổi. Vườn mắc ca này ra hoa rất nhiều nhưng tỉ lệ đậu trái rất thấp. Sau khi ra trái, có những thời điểm trái rụng xanh gốc.
Theo ông Trang Quang Thành, Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk, khí hậu Đắk Lắk nhìn chung không phù hợp với cây mắc ca. Giống cây này sinh trưởng, phát triển trong nhiệt độ lý tưởng từ 18-24 độ C nhưng ở Đắk Lắk nhiệt độ rất cao, chênh lệch giữa ngày và đêm khá lớn. Bên cạnh đó, mùa ra hoa của cây mắc ca thường trúng vào mùa gió, ảnh hưởng đến quá trình đậu trái.
Mắc ca trồng ở Đắk Lắk đã nhiều năm, có nơi trồng 14 năm rồi nhưng không ra trái. “Mắc ca ra hoa nhiều nhưng tỉ lệ đậu trái rất thấp nên chúng tôi đã khuyến cáo nông dân không mở rộng diện tích trồng mắc ca để tránh những hậu quả về sau” – ông Thành nói.
Cần phải cân nhắc trước khi trồng cây mắc ca
Đừng tưởng dễ làm giàu
Theo số liệu của ngành nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk thì toàn tỉnh chỉ có 110 ha mắc ca nhưng thực tế, diện tích mắc ca đã tăng lên rất nhiều và sẽ tăng đột biến vào mùa mưa năm nay.
Tại xã Phú Lộc, nhiều hộ dân đã trồng hàng chục hecta mắc ca ngoài quy hoạch. Bà Nguyễn Thị Thanh cho biết sau khi thu hoạch 50 cây trồng xen, năm ngoái gia đình bà đã trồng thêm 1.000 cây mắc ca trên rẫy. Hiện nhà bà đang phá bỏ 4 ha cao su, chờ mùa mưa xuống sẽ trồng mắc ca. Gia đình anh Nguyễn Văn Nguyên cũng đang chuẩn bị xuống giống trên diện tích hơn 5 ha cây cao su vừa phá bỏ. Cũng theo anh Nguyên, năm nay, gia đình đã ươm hơn 20.000 cây giống nhưng không đủ bán vì trong thôn có rất nhiều người trồng mắc ca.
Theo ông Hoàng Phương, người quản lý vườn ươm của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên, thời gian gần đây có rất nhiều người đến hỏi cây giống mắc ca. Hiện vườn có hơn 40.000 cây giống nhưng đã được đặt mua hết.
Bên cạnh đó, khu vực xung quanh Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên có hơn 100 cơ sở kinh doanh cây giống nhưng nhiều cơ sở “cháy hàng” mắc ca. Một chủ cơ sở trên đường Nguyễn Lương Bằng tiết lộ mặc dù chưa đến mùa mưa nhưng từ đầu năm tới nay, cơ sở đã bán được hơn 2.000 cây giống với giá 60.000 đồng/cây.
Theo TS Trần Vinh, sau hơn 10 năm nghiên cứu, trồng thử nghiệm cho thấy mắc ca là loại cây khó tính. Nếu chọn được loại giống tốt, trồng ở khu vực có điều kiện tự nhiên phù hợp thì chưa chắc đã thành công vì loại cây này dễ mẫn cảm với các điều kiện sinh thái thay đổi.
Về hiệu quả kinh tế, ông Vinh cho rằng đừng nên “đao to, búa lớn” gọi là “cây tỉ đô” mà hãy xem đây là loại cây nếu làm đúng sẽ cho thu nhập khá hơn cây cà phê. Chẳng hạn, nếu làm tốt, sản lượng mắc ca sẽ đạt 2 tấn/ha. Với giá thị trường trung bình khoảng 60.000 đồng/kg, người trồng sẽ thu được khoảng 120 triệu đồng, trừ chi phí đầu tư, thu về khoảng 80 triệu đồng. Trong khi đó, 1 ha cà phê nếu đạt khoảng 4 tấn nhân thì thu được 160 triệu đồng nhưng chi phí đầu tư cao hơn nên người trồng chỉ lời được khoảng 60 triệu đồng.
“Chúng tôi khuyến cáo người dân không vội chặt bỏ các loại cây trồng khác để trồng mắc ca mà nên trồng xen canh vào các vườn cây để cho thêm thu nhập” – TS Trần Vinh nói.
Khuyến cáo nông dân thận trọng
Tại Đắk Nông, trước tình hình người dân ồ ạt trồng cây mắc ca, ngành nông nghiệp tỉnh đã phải khuyến cáo nông dân không được trồng đại trà. Theo ông Đỗ Ngọc Duyên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nông, tỉnh đã quy hoạch phát triển mắc ca chỉ riêng tại huyện Tuy Đức. Tuy nhiên, để tránh những rủi ro, sở đã khuyến cáo nông dân trồng xen canh với các loại cây nông nghiệp.
Cây mắc ca là lựa chọn thích hợp sau 20 năm nghiên cứu khảo nghiệm, vùng đất hứa cho cây mắc ca Việt Nam đã được xác định là Tây Nguyên và Tây Bắc
Các cây công nghiệp lâu năm truyền thống của nước ta như cà phê, cao su đang gặp khó khăn về thị trường do cung vượt cầu, đòi hỏi bức thiết phải tìm ra cây gì thay thế có hiệu quả kinh tế cao hơn, thị trường đầu ra ổn định.
Cây mắc ca là lựa chọn thích hợp sau 20 năm nghiên cứu khảo nghiệm, vùng đất hứa cho cây mắc ca Việt Nam đã được xác định là Tây Nguyên và Tây Bắc.
Triển vọng Tây Nguyên, Tây Bắc
Nguồn gốc: Mắc ca (tên quốc tế: Macadamia, thuộc họ Proteaceae với 2 loài là vỏ trơn – Mắc cadamia integriflia – hoa trắng và loài vỏ nháp Mắc cadamia tetraphylla – hoa tím phớt đang được phát triển tại Việt Nam).
Mắc ca có quả hạch với hạt vỏ cứng, ăn có vị thơm bùi, béo ngậy hấp dẫn, xuất xứ từ bang Qeensland (Úc). Sau 100 năm thế giới đã phát triển được 80.000 ha (đứng đầu là Úc, sau đó là Nam Phi, Mỹ…).
Giá trị kinh tế: Quả mắc ca là nguyên liệu đa dạng cho các ngành chế biến bánh kẹo, thực phẩm, mỹ phẩm cao cấp (kem dưỡng da, chống nắng), là thức ăn phù hợp cho các lứa tuổi từ người già tới trẻ em, tốt cho người ăn kiêng, tiểu đường, huyết áp…
Tại Việt Nam, mắc ca trồng cây ghép năm thứ 3 đã bất đầu bói quả, năng suất tại năm thứ 5 đã đạt 5 kg/cây, năm thứ 10 đạt 20 kg/cây cao gấp đôi tại Úc.
Triển vọng, vùng quy hoạch: Sau hơn 10 năm khảo nghiệm rộng với diện tích 2.000 ha (Tây Nguyên 1.600 ha, Tây Bắc 400 ha), đã xác định 2 vùng với tổng diện tích 1,2 triệu ha rất thích hợp hoặc thích hợp trồng cây mắc ca với nhiệt độ thấp hơn 17 độ C trong 3 – 5 tuần, không có mưa xuân, tầng canh tác dày 0,5 – 1m, thích hợp đất hơi chua pH = 5 – 6. Độ cao 300 – 1.200 m trên mặt biển. Lượng mưa tối ưu 1.500 – 2.500 mm.
Đạm là chất dinh dưỡng quan trọng được sử dụng để kiểm soát tăng trưởng và đậu quả, đạm trong lá cao giúp cây sinh trưởng nhanh chóng, năng suất quả và tỷ lệ dầu cũng cao hơn.
Hàm lượng lân (photsphate) trong lá tối ưu ở ngưỡng 0,08 – 0,10% làm tăng sản lượng hạt (Robinson, 1986; Cooil et al, 1966).
Phun Bo 0,02% liên tục trong 3 năm, hoặc bón phân chứa Bo làm tăng Bo trong lá tạo ra năng suất tới 10%, làm cho năng suất rõ rệt (Boswell, 1981; Mik, Nagao, 1992).
Đáp ứng nhu cầu kỹ thuật trồng cây mắc ca hiện nay, Cty CP Phân lân nung chảy Văn Điển phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu SX ra các loại phân bón chuyên dụng phục vụ thâm canh cây Mắc ca đạt hiệu quả kinh tế cao.
Ngoài các chất đa lượng N (đạm), P (lân), K (kali) cây mắc ca còn cần những chất trung lượng CaO, MgO, SiO2, S với tỷ lệ vừa phải và hàng chục loại chất vi lượng thiết yếu như Zn, Mn, B, Cu, Co…
Loại phân này có thành phần cơ bản là lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung vi lượng, kết hợp một phần tan nhanh đáp ứng nhu cầu của cây, phần lớn tan chậm, không tan trong nước, chỉ tan khi khi tia rễ tiếp xúc hấp thụ, lân nung chảy chứa tới trên 90% các chất hữu hiệu đa, trung và vi lượng, giảm thiểu trôi rửa, tiết kiệm phân bón, cải thiện chất đất, 1 kg lân nung chảy có tác dụng trung hòa, giảm bớt độ chua của đất tương tự 0,5 kg vôi bột.
Ngoài ra, trong phân Văn Điển chứa nhiều kali, Silic và kẽm, Bo làm cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, giảm độ chua, đề kháng tốt với sâu bệnh, đổ ngã, tăng tỷ lệ đậu quả, đạt năng suất và chất lượng cao, làm tăng kích cỡ quả và thành phần dầu Mắc ca trên các loại đất chua, đất bạc màu.
Kỹ thuật cơ bản
Tổng kết kinh nghiệm trồng và chăm sóc mắc ca ở Việt Nam và trên thế giới, có thể khuyến cáo kỹ thuật và liều lượng phân bón cho mắc ca ở các lứa tuổi như sau:
Phân cho bầu: Dùng phân NPKS 5-10-3-2 + CaO, MgO, SiO2, B,Mn, Zn, Cu, Co… Cách bón: 30% phân chuồng + 70% đất bột + 2 kg NPK 5:10:3 Văn Điển cho 1.000 bầu.
Phân bón lót: Dùng phân lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung, vi lượng. Cách bón: Trước khi trồng cây vào hố 1 tháng nên đào hố và trộn lớp đất mặt cùng với 10 kg phân chuồng ủ hoai; 0,5 kg phân lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung, vi lượng; 300 gram vôi bột. Trộn đều với lớp đất mặt, sau đó lấp đất lại hố 20 ngày trước khi trồng.
Phân chuyên bón thúc: Chuyên dụng NPK đa yếu tố cho mắc ca: 4N:12P:7K+Zn + trung vi lượng.
Trồng cây: Đào hố, mật độ trồng: Đất bằng 5 x 7 m/hốc (286 cây/ha), đất dốc < 30%: 4,5 x 9 – 10 m/hốc (200 cây/ha), kích thước hốc nên 1 x 1 x 1m để bảo đảm cho bộ rễ cọc phát triển tốt về chiều sâu, tăng khả năng chống đổ về sau khi cây có chiều cao trên 10 m.
Giống cần mua tại các trung tâm giống mắc ca có uy tín, có chứng chỉ cây đầu dòng để bảo hành cho người trồng. Tránh dùng giống thực sinh (mọc từ hạt), giống rớm, lấy ngọn ghép gốc, năng suất về sau không bảo đảm, sẽ gây hệ lụy thiệt hại kinh tế cho hàng chục năm sau.
Phương thức và thời vụ trồng (xem bảng):
Phương thức trồng
Mật độ trồng (cây/ha)
Cự ly (m)
Thời vụ trồng (tháng)
Trồng thuần loài
286 – 400
5 x 7 hoặc 5 m
Tây Bắc: 7 -8; 4 – 5Tây Nguyên: 6 – 8
Miền Trung 2 -3
Trồng xen cà phê
285 – 330
6-7 x 5 m
Tây Nguyên: 6 -8Tây Bắc: 7 -8; 4 – 5
Phân bón thúc: Sử dụng công thức phân bón chuyên dụng NPK đa yếu tố cho mắc ca: 4N:12P:7K+Zn + trung vi lượng cho các loại đất đồi hơi chua.
Chăm sóc vườn:
Lần 1 nếu trồng vụ thu: Sau khi trồng từ 2 – 3 tháng tiến hành chăm sóc bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn + trung vi lượng với lượng 0,2 – 0,3 kg/ cây.
Lần 2 nếu trồng vụ xuân: Thường vào tháng 8 – 9 trong năm. Mắc ca là cây lấy hạt cho nên ta phải bón thúc phân chuồng hoai nếu có điều kiện (5 kg/cây). Nếu không có, cần bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn + trung vi lượng với lượng 0,2 – 0,3 kg/ cây.
Sau 3 – 4 năm cây cho hoa và đậu quả ta cần bổ sung chất hữu cơ kịp thời theo từng chu kỳ sinh trưởng của cây. Trước thời kỳ ra lộc non ta bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn + trung vi lượng 0,3 – 0,5 kg/tuổi cây, chia làm 2 lần vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa mưa.
Kỹ thuật trồng, chăm sóc cây mắc ca
Lần tiếp theo bón thúc NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn + trung vi lượng đều bổ sung dinh dưỡng trước thời kỳ cây phân hóa mầm hoa (ở các nách lá và thân cành có các chấm nhỏ li ti bật đều đặn màu trắng sáng hoặc phớt nâu).
Khi cây bắt đầu đậu quả ngoài việc bón phân đa yếu tố NPK chuyên dụng Văn Điển theo đúng liều lượng chỉ dẫn, có thể bó thêm lân Văn Điển bổ sung vi lượng với liều lượng 0,2 kg/gốc và tăng cường tưới nước.
Tạo tán, tỉa cành: Trong 3 năm đầu nên tạo tán giữ cho cây có 1 thân thẳng đứng, cắt bỏ các cành cao dưới 1,4 m. Mỗi tán cành cách nhau khoảng 60 – 70 cm, chỉ nên giữ lại 2 – 3 chồi từ một nhánh. Khi cây đã trưởng thành và cho thu hoạch, nên bón thêm phân chuồng ủ hoai và phân chuyên dụng mắc ca và lân Văn Điển hàng năm vào tháng 11 để phục hồi sức cho cây sau vụ thu hoạch, đồng thời tạo tán tỉa cành.
Tưới nước: Trong thời gian 3 năm đầu sau khi trồng có thể tưới bất khì khi nào nếu thấy khô hạn nhằm cho cây phát triển. Nhưng đến năm thứ 4 trở đi cây có khả năng cho quả thì nên ép khô xiết nước cây nhằm ức chế ra hoa.
Thuốc BVTV: Nên phun định kỳ lên cây bằng các chế phẩm sinh học Tam Nông thân thiện môi trường bằng cách phối hợp của các vi nấm Beauveria (Nấm trắng), Metarhizium (Nấm xanh) và Entomophthora để diệt bớt côn trùng có hại (không nên dùng hóa chất diệt toàn bộ sẽ gây mất cân bằng sinh thái, tạo ra dòng mới đề kháng với thuốc, hại cho ong mật và các loại thiên địch hữu ích).
Sau khi bài “ Cây mắc ca – Huyền thoại hay ngộ nhận” của GS. Nguyễn Tử Siêm đăng trên các báo và chuse24h cũng đã đăng lại toàn văn theo email do chính Giáo sư gởi, thì trên báo Nông Nghiệp Việt Nam cũng đã đăng bài phản biện của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng với tiêu đề “Trồng ‘cây tỷ đô’: Xin hầu chuyện GS Nguyễn Tử Siêm…
Hôm nay Ban Quản Trị chuse24h nhận được bài của GS Nguyễn Tử Siêm phản hồi về ý kiến đã đăng trên báo Nông Nghiệp VN, để rộng đường dư luận cũng như được nghe tiếng nói từ hai phía của hai vị Giáo sư, chúng tôi xin đăng toàn văn bài của GS. Nguyễn Tử Siêm như sau:
Sau bài viết của tôi “ Cây mắc ca – Huyền thoại hay ngộ nhận”, ông Nguyễn Lân Hùng có bác bỏ một số điều, tôi xin bàn thêm mấy điểm sau:
1) Tôi viết:” mắc ca nhân giống bằng chiết ghép…”. Dùng cụm từ này tôi muốn nói gọn thuật ngữ ”nhân vô tính” tức là: chiết, ghép, hoặc cấy mô cũng được. Ông Hùng đề nghị: “ta nên bỏ bớt chữ “chiết” đi”. Tôi đồng ý, và cũng nhắc rằng không dưới 1 lần ông đã hướng dẫn cho bà con nông dân chiết. Ví dụ: “mắc ca có rất nhiều giống và nhiều cách nhân giống: nhân bằng hạt, nhân bằng cành giâm, nhân bằng cách chiết, ghép…” . Vậy ông nên có lời tự đính chính lại với bà con.
Cây tỷ đô: bàn chuyện cây mắc ca với ông Nguyễn Lân Hùng
2) Tôi viết: ”… sau ít nhất 7 – 10 năm mới cho thu hoạch kinh tế, điểm hòa vốn khá chậm và nếu trồng bằng cây thực sinh sẽ không cho quả”. Ông cho rằng “không chính xác”, vì “nhiều bà con mới trồng 5 – 6 năm đã có được thu hoạch rất khá, gia đình vươn lên trông thấy”. Lưu ý ông là “thu hoạch khá” không luôn luôn đồng nhất với thu hoach kinh tế (tức có hiệu quả) và năng suất vụ bói trên diện hẹp mà ông nói chưa thể coi là “vươn lên” chắc chắn. Bây giờ đang là lúc bán hạt giống, cây giống, bán thành phẩm mắc ca với giá cả “loạn xạ”, chưa có cơ sở để khuyên người trồng yên tâm hưởng lâu dài.
3) Về trồng xen với cà phê, ông viết “Dân đánh giá rất tốt”. Có thể có vài hộ, không nên nhân danh dân. Nên nhớ đã có những cây bơ, quế, sầu riêng,…nhằm thay thế muồng đen, muồng lá khế, keo dậu (những cây che bóng đã lọc lựa mấy chục năm nay) đều làm cho cả 2 cây (cà phê và cây bóng) không ra gì; khẳng định này không thiếu trên truyền thông. Còn trồng xen để mắc-ca diệt cà phê thì câu chuyện lại khác, nhiều hộ vẫn không dám phiêu lưu như vậy và không nên hối thúc họ thay thế.
4) Ông viết: “mắc ca sẽ góp phần cân đối lại nguồn nước”. Hãy lắng nghe các ý kiến khác: “Mắc-ca cần nước quanh năm, mùa nắng phải đủ nước tưới; nếu không nắng hạn làm rụng hoa nghiêm trọng. Khi thiếu nước năng suất rất thấp, hạt nhỏ không đạt chuẩn tăng vọt. Mây và mưa dầm làm vỏ hạt dầy lên, nhân nhỏ lại. Nếu khí hậu không thuận lợi có thể hoàn toàn không đậu quả.…” (Phan Văn Danh, PCT Hội doanh nhân Việt kiều tại Úc).
5) Ông cho rằng tôi thiếu thông tin khi viết: “… đến nay vẫn chưa có một bộ giống chuẩn về cây mắc ca”. Vậy ông hãy đọc ông Cao Chí Công (Tổng cục Lâm nghiệp); Phạm Đồng Quảng (Cục Trồng trọt); Trần Vinh (Viện NCNLN Tây Nguyên); và “tại khu vực Tây Nguyên, nông dân đã trồng rất nhiều giống mới có hiệu quả thực tế cao, nhưng không hiểu sao lại chưa được công nhận chính thức” (Nguyễn Đình Hưởng, LienVietPostBank) để biết và khuyến cáo chính xác cho bà con.
6) Tôi không tham vọng đưa ra ý kiến lớn bổ ích cho bà con, chỉ mong giảm bớt thiệt hại nhỡ vướng cái vòng “chặt-trồng-chặt”. Mắc-ca có triển vọng, nhưng cũng không miễn nhiễm với triệu chứng này. Khi khuyếch trương phân khúc sản xuất, nên nhớ rằng các công ty đa quốc gia đang nắm đằng chuôi là giống và sản phẩm cuối cùng. Vì thế, mắc-ca Việt Nam phải làm chủ cả chuỗi giá trị mới chắc ăn được, sinh kế của hàng triệu người, không thể đem ra làm phép thử.
7) Sau bài viết của mình, tôi tìm thấy sự đồng điệu trong các ý kiến sau: “về mặt khoa học cây mắc ca cũng chưa rõ ràng” (Phạm Đồng Quảng”; “phải có nghiên cứu đầy đủ về cây mắc catrước khi có những thông tin quảng cáo rầm rộ” (Đào Thế Anh); “phải trồng khảo nghiệm rộng khắp để có một bộ giống chuẩn” (Trần Vinh); “chưa có cơ sở để khẳng định quĩ đất trồng mắc ca ở Tây Nguyên là 200.000 ha và tính hiệu quả của mắc ca thì hiện tại chưa có thể khẳng định được điều gì” (Cao Chí Công); v.v. Quảng cáo nên dựa trên cơ sở khoa học và đi sau khoa học.
Đưa thêm 1 cây vào hệ thống nông nghiệp là hay, tăng tính đa dạng và tính cạnh tranh của nông sản Việt, nhưng tính hiệu quả và bền vững của nó đòi hỏi phải thận trọng.