Tác giả: Chuse24h

  • Gia Lai cấp gạo cứu đói giúp người dân chống chọi với nắng hạn

    Gia Lai cấp gạo cứu đói giúp người dân chống chọi với nắng hạn

    Trận nắng nóng lịch sử, kéo dài làm cho nhiều địa phương ở Tây Nguyên đã xơ xác càng thêm xác xơ. Cái đói, cái khát đã thực sự lấp ló ở chân nhà sàn của các buôn xa bản gần.
    Cấp gạo cứu đói tại xã Đất Bằng (huyện Krông Pa, Gia Lai)
    Cấp gạo cứu đói tại xã Đất Bằng (huyện Krông Pa, Gia Lai)

    Mùa khô 2015-2016 kéo dài và vô cùng khốc liệt, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sinh hoạt của hàng chục ngàn hộ dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai, đặc biệt là ở các buôn làng vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.

    Hệ thống ao hồ, sông suối bị cạn kiệt. Những con sông lớn như sông Ba, sông Sê San đang thoi thóp dưới cái nắng đổ lửa. Theo đó, hàng chục ngàn héc-ta cây trồng các loại bị chết và giảm năng suất. Báo cáo cập nhật của các địa phương gửi về tỉnh, số hộ dân thiếu đói giáp hạt và thiếu nước sinh hoạt mỗi ngày một tăng.

    Tính đến giữa tháng 4/2016, toàn tỉnh Gia Lai có khoảng 14.000 hộ với trên 61.000 nhân khẩu thiếu đói giáp hạt (trong đó gần 12.000 hộ với trên 54.200 nhân khẩu là đồng bào dân tộc thiểu số).

    Bên cạnh việc thiếu đói thì nước sinh hoạt cũng đang là vấn đề nan giải ở nhiều địa phương trong tỉnh. Đã có khoảng 7.000 hộ thiếu nước sinh hoạt, tập trung ở các địa phương như Krông Pa 2.170 hộ, Chư Sê 1.700 hộ, Chư Pưh 1.300 hộ, Đăk Pơ 700 hộ…

    Trước tình hình trên, lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Gia Lai đã đưa ra những giải pháp thiết thực, coi việc cứu đói cho dân là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong lúc này. Ông Võ Ngọc Thành – Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, khẳng định: “Bằng mọi giá, không để dân thiếu cái ăn, thiếu nước uống, không để dịch bệnh xảy ra do đói, do thiếu nước sinh hoạt…”.

    Theo đó, từ 500 tấn lương thực được Chính phủ hỗ trợ, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các địa phương nhanh chóng chuyển đến tận tay nhân dân ở những vùng thiếu đói với phương châm: Chuyển kịp thời, chuyển đúng địa chỉ! Bên cạnh việc hỗ trợ của cấp trên, các địa phương cũng đã chủ động xuất ngân sách dự phòng, hỗ trợ 240 tấn lương thực, cứu đói cho 1.900 hộ với hơn 9.000 nhân khẩu trong diện cấp thiết.

    Hiện tại, tỉnh Gia Lai tiếp tục chỉ đạo các ngành, các địa phương rà soát tình hình thực tế, nắm chắc số hộ, số nhân khẩu bị thiếu đói, số buôn làng bị thiếu nước sinh hoạt. Trên cơ sở đó, tỉnh đã đề nghị Trung ương hỗ trợ hơn 1.500 tấn gạo cứu đói cho dân.

    Bên cạnh đó, tỉnh đã chỉ đạo ngành nông nghiệp, các địa phương trên địa bàn tỉnh tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cho sản xuất vụ mùa 2016 được thuận lợi.

    Việc giải quyết nước sinh hoạt cho dân cũng được chính quyền các cấp ở Gia Lai triển khai triệt để. Ở những nơi còn nguồn nước thì vận động bà con dùng nước tiết kiệm, san sẻ cho nhau.

    Tỉnh đã chi hỗ trợ 1 tỷ đồng cho các địa phương để khai thác nguồn nước. Cùng với chính quyền địa phương, các doanh nghiệp cũng đã xắn tay vào cuộc, gánh vác bớt khó khăn cho nhân dân (như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam…).

    Không bị động ngồi chờ sự cứu trợ của cấp trên, các huyện chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời triển khai cứu đói cho nhân dân.

    Huyện Krông Pa hỗ trợ đào nhiều giếng nước ở những vùng khô hạn; nạo vét nhiều lòng hồ, hố nước để tìm nguồn nước uống cho đàn gia súc. Với nhưng buôn làng không thể tìm được nguồn nước tại chỗ, huyện đã xuất ngân sách, hỗ trợ mua bồn chứa nước, chở nước đến tận làng cho vào bồn để nhân dân dùng.

    Huyện Kông Chro đã xuất ngân sách, hỗ trợ một phần kinh phí, huy động nhân dân nạo vét nhiều giếng đào, sửa chữa một số công trình tự chảy, cung cấp nước sinh hoạt cho hàng trăm hộ dân ở các làng H’tiêng, Cúc Roòng, A Lao, làng Troong…

    Huyện Chư Sê trích trên 300 triệu đồng, mua bồn chứa nước cấp cho nhiều làng ở hai xã trọng điểm thiếu nước là Ayun và H’bông, mỗi ngày chở hai chuyến nước đến làng, đảm bảo đủ nước sạch cho nhân dân sử dụng…

    Có thể nói, trước những khó khăn mà nhân dân Gia Lai đang phải gánh chịu trong mùa khô khốc liệt này, lãnh đạo tỉnh Gia Lai, chính quyền các cấp trong toàn tỉnh đã huy động tổng lực, trên tinh thần nhanh nhất, chính xác nhất, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn hán gây ra, ưu tiên số một cho việc cứu đói, giải quyết nước sinh hoạt cho nhân dân…

  • KHẮC VIỆT – Em Cứ Đi Đi

    KHẮC VIỆT – Em Cứ Đi Đi

    KHẮC VIỆT – Em Cứ Đi Đi

  • Khô khát Krông pa

    Khô khát Krông pa

    “Chưa năm nào nắng nóng như năm nay. Tình hình này mà kéo dài, chắc là dân chết khát mất thôi, đến trâu bò cũng không còn nước để uống!…”. Đó là nhận xét của nhiều cán bộ xã, cán bộ huyện, và cũng là ca thán…

    Người dân buôn Ma Giai chắt từng nước để giặt áo quần
    Người dân buôn Ma Giai chắt từng nước để giặt áo quần

    “Chưa năm nào nắng nóng như năm nay. Tình hình này mà kéo dài, chắc là dân chết khát mất thôi, đến trâu bò cũng không còn nước để uống!…”. Đó là nhận xét của nhiều cán bộ xã, cán bộ huyện, và cũng là ca thán của hầu hết nhân dân vùng “chảo lửa” huyện Krông Pa (Gia Lai).

    Nơi nào cũng khô khát

    Dưới cái nắng như thiêu như đốt của cao điểm mùa khô Tây Nguyên, chúng tôi xuôi quốc lộ 25, về huyện Krông Pa – huyện cuối cùng của tỉnh Gia Lai, giáp ranh với tỉnh Phú Yên. Hai bên đường, cây cỏ héo rũ, đồng ruộng khô cháy vắt không ra giọt nước. Những cánh rừng khộp ở đèo Chư Sê giờ chỉ còn là những quả đồi trơ trụi với đá và… đá.

    Đèo Tô Na – phân giới giữa thị xã Ayun Pa và huyện Krông Pa- một thời được nhắc đến với những mỹ danh như Thung Lũng Hồng, Thung Lũng Chân Trời Tím… giờ cũng chỉ là những quả đồi trọc lốc, tỏa ra hơi nóng hầm hập. Nhiệt kế trên xe chỉ nhiệt độ ngoài trời 40,5 độ.

    Xuôi đèo Tô Na về huyện Krông Pa, quốc lộ 25 chạy men theo dòng sông Ba. Con sông được mệnh danh là lớn nhất, kỳ vỹ nhất vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ, bây giờ thi thoảng mới gặp được vài đoạn còn chút nước. Mấy chú mục đồng đen nhẻm, mấy chị phụ nữ J’rai nào tắm, nào giặt, nào uống nước cùng với lũ bò ốm đến trơ xương vì thiếu cỏ ăn, thiếu nước uống.

    Lòng sông toàn cát là cát. Cát duềnh lên trắng xóa, lóa mắt dưới cái nắng đổ lửa xuống lòng sông cạn kiệt. Nhiều cư dân sống ven sông Ba ra sông, bới những cái giếng đường kính khoảng bốn mươi, năm mươi phân giữa lòng sông, với hy vọng mong manh rằng… dưới cát là nước.

    Chúng tôi đến xã Đất Bằng gặp Chủ tịch UBND xã – ông Phan Vũ Hưng, ông Hưng than thở: “Đợt hạn năm nay là trầm trọng nhất từ trước đến nay mà tôi biết”. Xã Đất Bằng có 9 thôn buôn với 957 hộ, 4.302 nhân khẩu. Theo Chủ tịch Hưng thì toàn xã đều bị ảnh hưởng trong đợt nắng nóng gay gắt và kéo dài này, đặc biệt trong đó có 6/9 thôn buôn với trên 300 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng.

    Kho khat Krong pa
    Giữa lòng sông Ba

    Buôn Ma Giai thuộc xã Đất Bằng của huyện Krông Pa, buôn này giáp ranh với xã Phước Tân (huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên). Buôn có 142 hộ với 629 nhân khẩu, là buôn thiếu nước nghiêm trọng nhất của xã. Hôm nay dân làng hầu như ở nhà vì “không có việc gì để làm. Không có nước, không làm ruộng được. Rẫy thì nắng nóng thiêu cháy hết rồi”, chị La O Thị Mai nói như mếu.

    Phụ nữ, trẻ con túm tụm tránh nắng dưới những bóng cây ít ỏi trong làng. K’păh Hon (24 tuổi, dân tộc Chăm) ngồi ngậm điếu thuốc to bằng… ngón tay cái dưới chân nhà sàn. Hon nói: “Cả tháng nay không làm rẫy, làm ruộng được nữa, bọn cháu ở nhà chơi. Hôm nào có người gọi thì đi bốc mỳ lên xe thuê cho người ta, mỗi ngày một trăm ngàn đồng”.

    Hon nói thêm: Bình thường dân làng ra suối Ma Sam dưới chân núi La Ông tắm giặt, sau đó gùi nước về làng để ăn uống, bây giờ suối không còn giọt nước.

    Chia tay với cơn khát của bà con dân tộc Chăm ở buôn Ma Giai, chúng tôi vòng sang đường Trường Sơn Đông để đến với một “cơn khát” khác mang tên buôn Tối. Buôn Tối (xã Krông Năng, huyện Krông Pa) cách trung tâm huyện hàng chục cây số, là buôn đặc biệt khó khăn với 100% người đồng bào dân tộc thiểu số.

    Đường vào buôn Tối cực kỳ khó đi nên gửi xe ô tô ở ngoài, tôi phải thuê một thanh niên J’rai chở vào buôn. Cũng chính vì đường khó đi, thường xuyên bị chia cắt nên buôn Tối bị cô lập như một ốc đảo. Ở cái nơi “ốc đảo” ấy, bà con có vô vàn nỗi lo như kiếm hạt gạo, củ khoai… Giờ 46 hộ dân trong buôn lại cõng thêm nỗi lo nữa là quay quắt với cơn khát.

    Cũng như bao buôn làng khác ở Tây Nguyên, khi lập làng, người buôn Tối đã bám vào bờ sông Ba với niềm tin dòng nước mát này sẽ mang lại sự đủ đầy, phồn thịnh cho buôn làng. Vậy mà từ khi con đập thủy điện sừng sững chặn ngang dòng sông Ba phía hạ du (mang tên Thủy điện Sông Ba Hạ), dòng nước cuồn cuộn mát lành, nặng trĩu phù sa ấy đã trở thành một vũng nước đọng. Nước tù ngả màu xanh nhờn nhợt; cây cối, chất thải dồn ứ với nồng nặc mùi xú uế.

    Trai làng Alê Phom (buôn Tối) cau có: “Trước kia nước trong vắt, nhà nào cũng ra sông tắm rồi cõng nước về làng uống. Từ khi sông ngừng chảy, tắm giặt xong xà phòng đứng luôn tại chỗ không trôi đi đâu cả, nước thì có mùi hôi tanh, tắm xong nhiều người bị ngứa”. Biết vậy, nhưng người dân buôn Tối vẫn phải tắm ở đấy bởi, muốn tắm rửa ở nơi sạch hơn phải đi cả chục cây số…

    Nỗ lực giải khát

    Trước cơn khát lịch sử của nhân dân trong huyện, chính quyền các cấp huyện Krông Pa đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm giải cơn khát cho bà con.

    Phó Chủ tịch UBND xã Krông Năng – ông Nông Đức Công, cho biết: Chính quyền địa phương đã đầu tư đào giếng nước cho bà con theo Chương trình 135 nhưng cũng chỉ có nước trong mùa mưa, còn mùa khô thì giếng cũng trơ đáy. Bà con chủ yếu đi múc nước ở các khe lạch, sông suối ở xa làng. Huyện cũng đã đầu tư một số giếng khoan, nhưng không khoan được vì gặp đá bàn.

    Niềm vui khi nước về buôn Ma Giai
    Niềm vui khi nước về buôn Ma Giai

    Còn Chủ tịch UBND xã Đất Bằng, ông Phan Vũ Hưng, cho biết: Trước tình hình nắng nóng gay gắt và thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng như hiện nay, xã đã đề nghị và được huyện cho tiến hành múc 22 hố nước lấy nước uống cho gia súc (đàn bò của xã có trên 6.000 con); đầu tư 3 giếng nước ở những lòng suối cạn để phục vụ sinh hoạt cho bà con ở những buôn làng thiếu nước nghiêm trọng.

    Ngoài ra, huyện cũng đã cấp cho xã 3 bồn chứa nước (mỗi bồn 2.000 lít), đầu tư cho 3 buôn làng trọng điểm, mỗi ngày, Công ty Đô thị huyện cho xe chở một bồn nước (6.000 lít), đổ vào 3 bồn ở các làng để bà con lấy nước uống. Bên cạnh đó, xã cũng đã tuyên truyền, vận động bà con bảo vệ nguồn nước tại chỗ, sử dụng nước tiết kiệm, biết chia sẻ với nhau trong lúc khó khăn…

    Phó Chủ tịch UBND huyện Krông Pa- ông Tạ Chí Khanh, cho biết: “Toàn huyện đang thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Chúng tôi đang nỗ lực tìm mọi nguồn nước để kịp thời cung cấp đến bà con”.

    Cũng heo ông Khanh thì huyện đã kịp thời hỗ trợ cho nhân dân bằng nhiều hình thức như xây bể, cấp bồn chứa, lu lằng lọc… Vận động bà con tiết kiệm nước, san sẻ nguồn nước cho nhau…

    Khi chúng tôi có mặt ở buôn Ma Giai (xã Đất Bằng), cũng là lúc chiếc xe chở nước của Công ty Đô thị huyện đưa niềm vui đến với dân làng. Mỗi ngày một chuyến, cứ khoảng gần cuối giờ sáng, chiếc xe lại chở nước đến đổ vào chiếc bồn 2.000 lít ở đầu làng. Cả làng từ cụ già, phụ nữ tranh thủ mang can ra lấy nước.

    Anh lái xe nói: “Lúc nãy bọn em cấp nước cho trường tiểu học ở làng bên cạnh, khi thấy xe đến, học trò đang học trong lớp chạy túa ra dành nhau lấy nước uống”. Mới biết, những nỗ lực của chính quyền địa phươngphần nào đã giải được cơn khát cho bà con trong lúc này.

    Với người Tây Nguyên, nước là yếu tố không thể thiếu (bên cạnh lửa). Chả vậy mà khi lập làng, nhất thiết ngôi làng ấy phải ở bên cạnh một nguồn nước mát; chả vậy mà con gái lớn lên, muốn “bắt” được chồng, phải biết cõng nước từ suối về không rơi một giọt; chả vậy mà tên đất, tên làng ở Tây Nguyên, hầu hết đều bắt nguồn từ chữ “Nước”: Ia (dân tộc J’rai), Đăk (dân tộc Barnah), Ea…

    Còn bây giờ, nước là những gì quá đỗi xa xỉ với người dân buôn Tối, buôn Ma Giai, và với rất nhiều buôn làng khác đang trong cơn khát ở Tây Nguyên…

  • Chư Sê đã có mưa, nhưng chưa là ‘mưa vàng’

    Chư Sê đã có mưa, nhưng chưa là ‘mưa vàng’

    Một cơn mưa khá lớn đã đổ xuống tỉnh Gia Lai vào lúc 18h35 ngày 17.4.

    Cơn mưa giúp giải nhiệt oi bức suốt mấy tháng qua. Tuy kéo dài hơn 30 phút nhưng cũng giúp người dân cảm thấy thoải mái. Tại Gia Lai, cơn mưa kéo dọc từ TP.Pleiku trở xuống các huyện Mang Yang, K’Bang và TX.An Khê. Các huyện phía tây Gia Lai như Ia Grai, Đức Cơ… không xuất hiện mưa.

    Trong khi đó, Kon Tum được cơn mưa trải đều trên toàn tỉnh.

    Theo Đài khí tượng Thủy văn khu vực Tây Nguyên, nguyên nhân gây mưa là do ảnh hưởng nhiễu của đợt không khí lạnh tăng cường ở phía Bắc (gọi là mưa dông nhiệt).

    Với lượng mưa chỉ trên dưới 10mm chưa thể đáp ứng là cơn “mưa vàng” nhưng cũng giúp tưới cho cây càphê.

    “Chứ giải quyết triệt để vấn đề chưa được. Hồ đập thì cạn, sông thì khô mưa chỉ một ít để gọi là tưới cây, thấm xuống đất mươi centimet chứ nói tạo thêm nước ngầm là chưa có”, ông Nguyễn Trung Thành – Phó Giám đốc Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên nhận định.

    Theo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên cơn mưa chỉ xuất hiện trong hai ngày 17-18.4 vì có lượng nhiệt ẩm. Những ngày tiếp theo sẽ không còn xuất hiện mưa.

    Nắng hạn khô kiệt hoành hành tại các tỉnh Tây Nguyên nhiều tháng qua. Hàng ngàn người dân các huyện Chư Pứh, Chư Sê, Krông Pa (Gia Lai) thiếu nước sinh hoạt, chính quyền phải mua nước đưa về cho người dân. Bộ đội đóng tại đây cũng được huy động dùng xe chuyên dụng tiếp nước hỗ trợ.

  • Ẩn họa sau việc cá tra, chanh dây ‘sốt giá’ bất thường

    Ẩn họa sau việc cá tra, chanh dây ‘sốt giá’ bất thường

    Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) vừa lên tiếng cảnh báo khi giá xuất khẩu cá tra liên tục tăng mạnh thời gian gần đây do thương lái Trung Quốc thu mua với giá cao. Nguồn nguyên liệu khan hiếm đang khiến giá xuất khẩu cá tra tăng cao lên mức 22.500 đồng/kg.
    Ẩn họa sau việc cá tra, chanh dây 'sốt giá' bất thường
    Nam Bộ đang sốt giá cá tra. ảnh: Hải Anh

    Thương lái Trung Quốc đột nhiên “khát” cá tra

    Giá cá tra đang thực sự “nóng” ở đồng bằng Nam Bộ. Đơn cử, những tháng gần đây, Công ty cổ phần thủy sản Trường Giang (Đồng Tháp) luôn là doanh nghiệp tốp đầu xuất khẩu cá tra sang thị trường Trung Quốc. Ông Hàn Văn, Phó Tổng giám đốc công ty CP thủy sản Trường Giang cho biết nhu cầu nhập khẩu cá tra của Trung Quốc bắt đầu tăng vọt từ đầu năm 2015.

    Những doanh nghiệp trong nước được thương lái Trung Quốc cho biết do tình hình nuôi trồng cá rô phi nội địa bị hụt sản lượng do thời tiết lạnh nên họ đẩy mạnh nhập khẩu.

    Cơn sốt giá cá tra lan khắp các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang và Vĩnh Long. Hàng loạt nhà máy cá tra gặp khó khăn do nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu thiếu hụt. Nhiều doanh nghiệp (DN) phải đẩy mạnh tiến độ thu mua cá của dân, ngay cả những con cá còn nhỏ chỉ từ 0,7-0,8kg nhằm đảm bảo công suất chế biến, khiến nguồn cung trên thị trường càng cạn nhanh. Những ngày qua, giá cá nguyên liệu tăng mạnh từ 19.000 đồng/kg lên 22.500 đồng/kg.

    Các DN đã đưa thông tin dự báo đến những người dân nuôi cá tra, đỉnh điểm trong đợt thiếu hụt nguyên liệu cá tra năm 2016 sẽ rơi vào giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 8, nghĩa là trùng vào mùa xuất khẩu cao nhất trong năm. Do đó, tới đây giá cá tra sẽ còn tiếp tục “nóng” ở cả thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.

    Không khắt khe như các thị trường Hoa Kỳ, Châu Âu chẳng cần qua kiểm soát chất lượng, các chỉ số vi sinh vật, thương lái Trung Quốc đến tận ao “bốc xô” cá, đưa thẳng lên xe thùng chở đi.

    Theo Vụ Nuôi trồng thủy sản, Tổng cục Thủy sản cho biết: Nếu cá tra xuất khẩu đạt mức 22.000 – 24.000 đồng/kg, nông dân có thể lãi 800 – 1.500 đồng/kg. Tuy nhiên, trước hiện tượng nhiều thương lái Trung Quốc tìm mua cá tra rầm rộ, Tổng cục Thủy sản đã cảnh báo ngành nông nghiệp các địa phương không để người dân tự ý mở rộng diện tích nuôi cá dẫn đến nguồn cung vượt quá cầu.

    Ông Trương Đình Hòe – Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng cảnh báo, hiện tượng tăng giá chưa chắc đã phản ánh được đúng bản chất thị trường, giá hôm nay cao, có thể thời gian tới sẽ sụt giảm mạnh. Trong khi đó chu trình nuôi cá tra xuất khẩu phải mất 8 tháng. Nếu đầu tư với giá cao, đến khi bán với giá thấp, chỉ còn nước lỗ.

    Chặt cà phê trồng chanh dây

    Cũng giống như cá tra ở Nam Bộ, thương lái Trung Quốc tiếp tục đến Tây Nguyên thu mua quả chanh dây với giá rất cao.

    Vài tháng trước, giá chanh dây ở mức 10.000 đồng/kg, nhưng hiện giá quả chanh dây tăng liên tiếp từ 40.000 – 46.000 đồng/kg, chanh loại 1 có thể lên tới 56.000 đồng/kg. Song hành với giá quả chanh dây tăng thì giá cây chanh leo giống cũng tăng theo. Chanh giống phổ biến từ 45.000 đồng/cây. Những dây chanh giống này đều có nguồn gốc từ Trung Quốc.

    Là một trong những người chặt bỏ cà phê, cao su trị giá hàng trăm triệu đồng mà bao nhiêu năm chăm sóc để trồng chanh dây, anh Phan Văn Minh ở huyện Mang Yang, Gia Lai cho hay, đã phá bỏ gần 1 ha cà phê, chuyển sang trồng chanh dây. Vườn cà phê đã 8 năm tuổi song “Chanh dây đem lại lợi nhuận cao trong khi cà phê bấp bênh, tốn nhiều công chăm sóc”, anh Minh giải thích.

    Theo anh Minh, quả chanh dây bán với giá 10.000 đồng/kg thì nông dân cũng đã có lãi, trong khi hiện nay giá loai quả này đã gần 50.000 đồng/kg thì siêu lợi nhuận. Trồng chanh dây công chăm sóc cũng không nhiều, rủi ro cây chết rất thấp.

    Phòng NN&PTNT huyện Mang Yang cho biết, hiện địa bàn huyện này đã có khoảng 200 ha đất trồng chanh dây. Trung bình trồng 1 ha chanh dây tốn hết 9,5 triệu đồng tiền cây giống. Loại chanh này trồng sáu tháng là thu hoạch và bán chủ yếu sang Trung Quốc. Có những thương lái vào huyện Mang Yang thu mua tới 50 tấn/ngày chanh đóng thùng chở về Trung Quốc.

    Sức hấp dẫn của giá chanh dây đã khiến nông dân ở các huyện, thị như: Mang Yang, Chư Sê, Chư Păh, La Grai… của Gia Lai chặt phá những rẫy cà phê, hồ tiêu, cao su xanh tốt, chuyển sang trồng chanh dây.

    Theo anh Hồ Nam ở Thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, người có kinh nghiệm trồng cây cà phê gần 20 năm thì, hiện tượng này mới xảy ra ở Gia Lai, Kon Tum. “Với lợi nhuận trước mắt rất dễ bà con Đắk Lắk cũng làm theo”, anh Nam nói.

    Theo anh Hồ Nam, những địa phương mà nông dân chặt cây cà phê, hồ tiêu trồng chanh là những nơi hạn hán kéo dài ảnh hưởng đến năng suất cây cà phê, cao su. Hơn nữa, giá bán cà phê, cao su cũng đang rớt giá.

    “Khoảng chục năm trước, chính quả chanh dây này đã làm khuynh gia bại sản nhiều người ở Tây Nguyên, nhiều gia đình vỡ nợ. Bây giờ, chanh lại vụt lên, liệu nó có đổi đời cho người nông dân thật hay không?”, anh Nam băn khoăn.

    Những năm qua, thương lái Trung Quốc liên tục tạo những cơn sốt giá mua những nông sản một cách kỳ lạ. Sau những cơn sốt đó, phần nhiều, người nông dân và đầu nậu người Việt Nam nếm “trái đắng”.

    Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở NN&PTNT Gia Lai, cây chanh dây trên địa bàn phát triển hoàn toàn tự phát. Người dân thấy có giá nên trồng. Hiện tỉnh có khoảng 301ha chanh dây, trong đó, chỉ riêng năm 2015 đã trồng mới 108 ha và dự báo thời gian tới diện tích sẽ còn tăng.

    Các hộ trồng chanh cho biết, khi thu hoạch xong, thương lái đến tận nhà mua rồi xuất bán sang Trung Quốc. Giá cả hoàn toàn do các thương lái này chi phối.

  • Bỏ Pháp về Việt Nam trồng cà phê

    Bỏ Pháp về Việt Nam trồng cà phê

    Pierre Morère quyết định rời công ty bất động sản ở Paris để bay sang Lâm Đồng. Người bạn đời của anh sống trong rừng chịu không nổi đã bỏ về Pháp, nhưng anh vẫn kiên gan bám trụ, sống với người dân tộc Cill để trồng và quảng bá ra thế giới loại cà phê hiếm có.
    Pierre Morère trong vườn cà phê.
    Pierre Morère trong vườn cà phê.

    Nhà và vườn cà phê Arabica rộng 2ha của gã người Pháp lãng tử Pierre Morère ở trong làng của người Cill thuộc xã Đạ Sar (huyện Lạc Dương, Lâm Đồng), cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 20km. Đó là căn nhà gỗ nhỏ đơn sơ có sân phơi cà phê phía trước, giữa phòng khách xây một cái bếp để đốt lửa hệt như hàng trăm ngôi nhà khác của đồng bào thiểu số nơi đây. Pierre không sắm tivi. Anh bảo cùng uống trà, cà phê và trò chuyện với người trong làng về cây cỏ, chim muông, phong tục, tập quán còn thú vị hơn.

    Khi đưa khách tham quan vườn cà phê trứ danh của mình trong rừng Đạ Sar, Pierre yêu cầu phải để xe ở ngoài bìa rừng rồi đi bộ vào. Khách thắc mắc tại sao phải đi bộ trong khi sẵn có đường mòn mà xe máy có thể lưu thông? Piere thong thả giải thích đi xe máy sẽ làm tung khói bụi vào cây trong khi cây cối cũng như con người đều thích không khí trong lành. Mặt khác, sẽ rất sảng khoái khi bách bộ trong rừng thông thuần chủng xanh ngắt và lội qua dòng suối trong vắt, mát lạnh.

    Bỏ Pháp về Lâm Đồng trồng cà phê
    Tranh: Nguyễn Văn Hổ.

    Người di thực giống cà phê hàng đầu thế giới

    Khu vườn của anh trồng cà phê Bourbon, một trong hai giống đầu tiên thuộc loài Arabica. Từ những năm 70 của thế kỷ XIX, người Pháp đã mang một số giống cà phê Arabica sang trồng thử nghiệm tại nhiều tỉnh, thành ở Việt Nam. Kết quả, Arabica chỉ phát triển tốt ở vùng có độ cao trên 1.000m, nhiệt độ từ 16-25°C như Đà Lạt và khu vực lân cận.

    “Riêng Bourbon rất thích nghi với những vùng cao trên 1.500m như Đà Lạt. Càng lên cao cộng với điều kiện thổ nhưỡng và canh tác phù hợp thì hương vị của Bourbon càng tuyệt vời. Ông ngoại của mình (ông Faraut – PV) chính là người di thực giống cà phê này đến Đà Lạt vào năm 1930, sau đó, mẹ của mình (bà Tecla Faraut – PV) được sinh ra tại Đà Lạt kế tục ông ngoại trồng cà phê”, Pierre tự hào khoe.  Đồn điền cà phê Bourbon rộng lớn của họ phát triển thịnh vượng nhưng vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, họ phải rời khỏi Việt Nam. Sau đó, chính quyền nói giống cà phê mới nhập từ Braxin qua trồng tốt hơn nên vườn cà phê của ông Fauraut bị hoang phế, chết dần.

    Gần trăm năm trước, gia đình ba thế hệ người Pháp đã di thực và ươm trồng loại cà phê thơm ngon bậc nhất thế giới tại Đà Lạt. Pierre Morère, cháu ngoại của đại gia đình này đã trở lại tìm loại cà phê này trong khu rừng hẻo lánh rồi cặm cụi nhân giống.

    Những câu chuyện của ông bà, cha mẹ về vùng đất thơ mộng hữu tình, cây trái xanh tươi, muôn hoa đua nở, người dân hiền hòa, chất phác đã gây ấn tượng mạnh với Pierre. Năm 1999, Anh trở lại Việt Nam theo đường du lịch, tìm về nơi chôn nhau cắt rốn của cha mẹ và bản thân mình ở Sài Gòn và Đà Lạt. 8 năm sau, Pierre quyết định rời công ty bất động sản ở Paris để bay sang Lâm Đồng, triển khai dự án nghiên cứu về thiên nhiên và môi trường sống ở Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà.

    Tại khu làng gần đó, anh đã gặp những người từng làm việc cho ông ngoại ngày trước. Họ rất ngạc nhiên khi thấy cháu của ông Faraut quay trở lại và đón tiếp anh niềm nở như với bà con, họ hàng. Mặc dù đã trên dưới 80 tuổi nhưng già Krajan và già Hơ Sa Ha Bang vẫn nhớ đến từng chi tiết căn nhà lớn với đầy đủ tiện nghi của thời ấy mà ông Fauraut đã xây dựng cho nhân công trú ngụ. Các già thay nhau kể vanh vách tên của những người làm, số lượng trâu bò, diện tích chè, cà phê trong đồn điền. “Ông và mẹ của Pierre nói tiếng Việt rất giỏi và gần gũi với người làm công”, già Ha Đơi nói.

    Người làng đã đưa Pierre băng qua nhiều cánh rừng, trèo lên ngọn đồi cao để tìm những cây cà phê Bourbon quý hiếm còn sống sót sau hơn nửa thế kỷ bị bỏ hoang. Pierre quyết gây dựng lại vườn cà phê với giống tốt nhất mà ông ngoại từng trồng tại Đà lạt. Đây là một trong những giống cà phê khó trồng nhất và dễ bị sâu bệnh nên đòi hỏi phải có môi trường phù hợp và kỹ thuật chăm bón đặc thù. Với phương châm sản xuất cà phê sạch, Pierre kỳ công tạo dựng môi trường trong lành bằng cách trồng cà phê trong rừng, cách ly với các vườn rau quả khác, dùng thiên địch diệt sâu bọ chứ không phun thuốc hóa học…

    Hơn 3 năm kể từ khi xuống giống, cà phê cho trái bói. Anh bảo vì đất đai và khí hậu ở đây thuận lợi chứ ở một số nước khác phải mất 4 năm. Khi thu hoạch, anh chỉ hái những quả chín đỏ để chế biến. Anh cùng các cộng sự người Cill tự tay tách hạt cà phê, phơi khô rồi rang, xay. Từng công đoạn được tiến hành đầy trách nhiệm, đam mê và đều làm bằng thủ công với những cái cối, chày, chảo rang thô sơ.

    Anh nói chế biến bằng máy sẽ khiến cấu trúc ADN trong hạt bị vỡ làm giảm chất lượng, còn khi rang xay bằng tay có thể chủ động điều chỉnh hàm lượng các chất trong hạt cà phê. “Quy trình chế biến của tôi có thể tạo ra những loại cà phê phù hợp với khẩu vị của từng khách hàng. Người thích vị ngọt sẽ chế biến theo hướng tăng lượng đường tự nhiên. Độ đắng chát… cũng nhờ thao tác trong quá trình chế biến mà ra, hoàn toàn không sử dụng hóa chất”, anh quả quyết.

    Bỏ Pháp về Lâm Đồng trồng cà phê
    Pierre Morère tiếp thị cà phê Bourbon.

    Đi Pháp, Nhật tiếp thị cà phê Việt

    Phải mất vài năm nghiên cứu, học hỏi anh mới chế biến thành công cà phê mang thương hiệu Bourbon Morère Pointu và mang đi tiếp thị khắp nơi, từ những hội chợ cà phê thế giới, những khách sạn, nhà hàng, quán cà phê cao cấp trong và ngoài nước, các doanh nghiệp nổi tiếng như Annam Gourmet hay đầu bếp lừng danh như Pierre Gagnère. Anh sang tận nước Nhật để giới thiệu cà phê của mình với những nhà nhập khẩu chuyên ngành và Hiệp hội Cà phê Nhật Bản. Cà phê của anh đã nhận được những phản hồi khá tốt về chất lượng và hương vị.

    Gần đây, Pierre có đợt tiếp thị cà phê tại resort 4 sao Ana Mandara Villas Dalat. Nhiều khách đến thưởng thức cà phê và hỏi chuyện khiến anh rất bận rộn. Một vị khách người Mỹ nói đã lâu rồi mới được uống lại loại cà phê có hương thơm quý phái, ngất ngây và vị hơi chua một cách thanh thoát như vậy. Pierre phấn khởi hỏi tiếp: “Sau khi nuốt ông có cảm thấy có vị đắng như socola không? Ông khách vui vẻ gật đầu rồi mua mấy gói cà phê. Sau khi vị khách đi khỏi, Pierre nói với tôi: “Ông ấy quả là người sành điệu, cảm nhận đúng hương vị và hậu vị của Bourbon. Một khi đã thưởng thức hương vị đích thực của Bourbon, người ta sẽ luôn nhớ đến nó hơn bất kỳ loại cà phê nào”. Anh còn dặn tôi với loại cà phê này có thể thưởng thức cả vào buổi tối mà không sợ mất ngủ vì chứa ít hàm lượng caffein.

    “Giá các loại cà phê khác trên thị trường chỉ có vài trăm ngàn trong khi cà phê của anh lên tới 2 triệu đồng/kg, liệu có đắt quá không?”, tôi hỏi. Anh cười đáp: Đây là một trong những loại cà phê cao cấp và hiếm nhất thế giới, số lượng hạn chế. Mặt khác năng suất của loại cà phê này khá thấp và công đoạn chế biến được làm bằng thủ công, tốn nhiều công sức. Ngoài ra, Starbucks (Mỹ) vừa lựa chọn Arabica Đà Lạt để đưa vào bán trong hệ thống cửa hàng cà phê danh tiếng của họ trên khắp thế giới, trong khi đó Bourbon là tinh túy của Arabica.

    Vui vì được người dân tộc gọi là anh em

    Khi tôi băn khoăn liệu anh sẽ bám trụ ở xã Đạ Sar xa xôi, quạnh quẽ này được bao lâu nữa khi mà người bạn đời đã bỏ về Pháp, anh đáp chắc nịch: Tôi mê làm cà phê, yêu cuộc sống yên tĩnh bên núi rừng và thích cách sống của tộc người thiểu số nơi đây. Tôi chẳng thấy họ khác tôi hay tôi khác họ. Họ sống sao tôi sống như vậy. Họ gọi tôi là anh em, là cháu chắt và tôi vui vì điều đó. Tôi hướng dẫn họ trồng cà phê Bourbon và thu mua hạt để chế biến. Tôi có niềm tin cà phê Đạ Sar sẽ ngày càng chất lượng và đi xa hơn, trở thành một loại đặc sản tinh tế của vùng đất này.

  • Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử
    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Chư Sê những ngày cuối tháng 3, cái nắng như đổ lửa vẫn hoành hành trên khắp vùng khiến hàng chục nghìn hộ dân thiếu nước sinh hoạt trầm trọng, hàng trăm nghìn ha cây trồng chết cháy. Cả vùng đang “oằn” mình trong đại hạn lịch sử.

    Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu khiến lượng mưa tại các tỉnh Tây Nguyên đạt ở mức thấp nhất trong những năm gần đây, mùa mưa đến muộn và kết thúc sớm khiến các hồ đập thủy lợi trên địa bàn đều không tích đủ nước. Thêm vào đó, thời tiết nắng như đổ lửa kéo dài khiến các mạch nước ngầm cạn kiệt, hàng trăm hồ chứa nước cạn trơ đáy.

    Các hồ chứa ở các tỉnh Tây Nguyên chỉ còn khoảng 30-40% so với dung tích thiết kế. Riêng Đăk Lăk có 250 hồ cạn nước, còn ở Đăk Nông, Kon Tum Gia Lai lần lượt là 17-40-5 hồ. Trong đó hồ Ea Hư (thuộc buôn Tah, xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk) đang phải đối mặt với tình trạng hạn hán đang diễn biến khốc liệt. Hàng trăm ha cà phê, hồ tiêu đang mòn mỏi “chờ nước”. Thậm chí, nhiều nơi người dân đành lòng phải chặt những cây hồ tiêu vì không có nước tưới. “Giờ nước sinh hoạt cho người còn phải tằn tiện lấy đâu ra nước tưới. Tiêu giúp mình làm giàu mấy năm nay giờ phải nhổ bỏ. Lâu lắm rồi làng này mới thấy hạn hán khốc liệt như năm nay”, ông Võ Lâm Ba huyện Chư Pưh chia sẻ.

    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Không chỉ hồ chứa, tất cả giếng đào sâu 30-40 m cũng không có nước. “Mình đã đào 42 m, tạt ngang 3 m nữa nhưng cứ bơm chừng 10 phút là hết nước. Hiện không thể đào sâu thêm vì tiền công nhiều, lại gặp đá tảng”, Anh Hồ Duy Hoàng, chủ 3 hecta cà phê ở huyện Chư Sê cho hay.

    Trong nhiều ngày qua, người dân tất bật, kéo ống “mót” những vũng nước còn lại để cứu cây trồng. Tuy nhiên, tình trạng thiếu nước khiến hàng trăm nghìn ha cà phê ở Tây Nguyên queo quắt. Trong khi đó, hàng nghìn ha lúa trên các cánh đồng ở phía tây tỉnh Gia Lai cháy khô, đành phải bỏ đi làm nguồn thức ăn cho trâu bò.

    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Bà Nguyễn Thị Nga ở huyện Chư Pưh có 5 sào cà phê nhưng phần lớn đã chết khô do 2 tháng nay do chỉ được tưới một lần.

    Không chỉ vậy, tình trạng nước sinh hoạt cho người dân cũng đang trở thành vấn đề nan giải. Nhiều gia đình phải đi “cõng” hoặc mua nước về dùng. Ông Lê Lý (trú thôn 10, xã Liên Đầm, huyện Di Linh, Lâm Đồng) than thở: “Đã hơn hai tháng nay, người dân ở khu vực thôn 10 không còn nước để uống rồi. Tổng cộng nhà tôi đã khoan 4 cái giếng, mất gần 60 triệu đồng nhưng không có nước. Hằng ngày, tôi phải đi từ 1 – 2km để xin nước. Nếu xin ít thì thôi, xin nhiều thì phải trả tiền điện, tiền nước cho người ta”.

    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Dọc QL14, đoạn qua xã Đắk Gằn (huyện Đắk Mil, Đắk Nông), cảnh người dân địa phương mang can, thùng đi mua nước tấp nập với giá giá 8 nghìn đồng/ 1 can 30 lít, hoặc 60 – 80 nghìn đồng/m3. Trong khi đó, ở các bản đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, bà con phải vào các khe suối “cõng” nước về dùng.

    Chư Sê chết khô trong đợt đại hạn lịch sử

    Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp, hiện có hơn 30.000 người ở Tây Nguyên thiếu nước sinh hoạt. Tại xã Hbông, nơi đang hứng chịu hạn hán khốc liệt nhất của tỉnh Gia Lai, chính quyền địa phương hỗ trợ người dân hàng nghìn thùng nước để giải “cơn khát” nước. Mỗi gia đình được hỗ trợ 3 thùng nước 20 lít nên có thể dùng tạm trong 10 ngày. Tuy nhiên, Đài khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên dự báo, đợt hạn hán sẽ còn kéo dài và lên đỉnh điểm vào thời gian tới. “Mùa khô năm nay sẽ hạn gay gắt, khốc liệt nhất trong lịch sử Tây Nguyên”, ông Trần Trung Thành – Phó giám đốc Đài Khí tượng thủy văn Tây Nguyên cho biết.

    Trong khi đó, tác giả Nguyên Ngọc cho rằng “Tình trạng làng mất, rừng chết, đồng bằng hạn hán là đương nhiên” khi rừng tự nhiên ở Tây Nguyên gần như hoàn toàn không còn, bị tàn phá kiệt quệ rất khó tái sinh, dù là rừng nhiệt đới. Chỉ có rừng tự nhiên, với hệ thực vật đa dạng, nhiều loại cây đan chen nhiều tầng, nhiều lớp thực vật … mới thật sự có tác dụng giữ nước, giữ độ ấm giàu có cho đất, và từ từ, kiên trì theo các mạch ngầm rỉ ra tiếp nước cho các dòng sông, cho các vùng đồng bằng hạ lưu… Trong khi đó, rừng Tây Nguyên bị tàn phá nghiêm trọng phục vụ các hoạt động kinh tế khai thác lấy gỗ tràn lan; lấy đất trồng cao su, trồng hồ tiêu, những giống cây không thể thay thế rừng giữ nước. “Rừng Tây Nguyên bị tàn phá đến kiệt quệ như hiện nay, theo nhiều chuyên gia, sẽ không biến thành sa mạc cát, như kểu Gobi hay Sahara, mà thành loại rừng gai lúp xúp. Chẳng lẽ chúng ta muốn để lại cho con cháu một cao nguyên toàn rừng gai lúp xúp!” – lời của tác giả.

  • Bí ẩn cây chanh dây và các thương lái Trung Quốc ở Chư Sê

    Bí ẩn cây chanh dây và các thương lái Trung Quốc ở Chư Sê

    Thời gian gần đây, giá chanh dây trên địa bàn Tây Nguyên bỗng dưng tăng đến chóng mặt, nông dân ồ ạt chặt cà phê để trồng chanh. Trong khi đó, giống cây chanh được mua từ Trung Quốc, quả chanh thì cũng được bán cho các thương lái Trung Quốc.

    Phá cà phê trồng chanh dây

    Vài tháng nay, giá quả chanh dây trên địa bàn Gia Lai và Kon Tum bất ngờ tăng chóng mặt. Chỉ chừng vài tháng trước, giá chanh dây ở mức 10 nghìn đồng/kg, nhưng thời gian gần đây, giá chanh luôn tăng dần. Đặc biệt, 4 ngày nay, giá quả chanh dây tăng liên tiếp từ 40 nghìn đồng/kg – 46 nghìn đồng/kg và 56 nghìn đồng/kg (vào ngày 24/3). Điều đáng nói, giá quả chanh tăng thì giá cây giống cũng tăng giá theo và tính đến ngày 24/3, giá mỗi dây chanh giống là 44 nghìn đồng/dây; và những dây chanh giống này đều có nguồn gốc từ Trung Quốc.

    Chanh dây tăng giá, nhiều nông dân đã ồ ạt chặt bỏ những vườn cà phê và cao su trị giá hàng trăm triệu đồng mà bao nhiêu năm chăm sóc để trồng chanh dây.

    Mặc dù 1 ha cà phê đã thu hoạch bước vào năm thứ 6, nhưng gia đình chị Trần Thị Huyền (thị trấn Kon Dỡng, Mang Yang, Gia Lai) vẫn quyết định chặt bỏ vườn cà phê nhà mình để trồng chanh dây. Chị Huyền cho biết, để đầu tư một vườn cà phê cho đến năm thứ 6 như hiện nay, gia đình chị đã bỏ ra khoảng 200 triệu đồng từ khi bắt đầu trồng đến nay. Tuy nhiên, gia đình chị Huyền vẫn quyết định chặt bỏ vườn cà phê này để trồng chanh dây.

    Chị Huyền tính, 1 ha cà phê, trung bình 1 năm cho khoảng 3 tấn nhân. Với giá cà phê như hiện nay, gia đình chị bán chỉ được khoảng hơn 90 triệu đồng. Trừ tất cả các chi phí, cả một năm gia đình chị chỉ lời được khoảng hơn 20 triệu đồng từ 1 ha cà phê này.

    “Trồng cà phê rất mất công sức, sau 3 năm cà phê mới bắt đầu cho thu hoạch, mùa khô thì tưới nước, cắt cành; mùa mưa thì làm cỏ, bón phân… Tuy nhiên, lời lại không cao. Năm nay cà phê vừa mất mùa, vừa mất giá, cả năm chúng tôi chỉ lời được hơn 20 triệu đồng. Trong đó gia đình tôi 4 người, 2 con nhỏ đang ăn học, chúng tôi chi tiêu như thế nào với 20 triệu đồng/năm đây?”, chị Huyền chia sẻ.

    Bị lôi cuốn bởi giá chanh dây đang tăng chóng mặt, gia đình chị Huyền quyết định chặt bỏ cả vườn cà phê để trồng chanh dây. Chị Huyền phân tích, cây chanh dây có tuổi thọ 3 năm, sau khi trồng 6 tháng, chanh bắt đầu ra hoa, hơn 2 tháng sau thì bắt đầu thu hoạch. Chanh cho thu hoạch liên tục cho đến khi dây tàn, với trung bình 90 tấn/ha/năm. Với giá bán hiện nay, mỗi ngày người trồng chanh thu lợi lên đến tiền triệu.

    “Chanh dây bán với giá 10 nghìn đồng/kg thì người trồng chanh cũng đã có lời rồi, còn như hiện nay giá đã 56 nghìn đồng/kg thì siêu lợi nhuận. Trồng chanh dây cũng nhẹ nhàng, công chăm sóc cũng không nhiều, rủi ro cây chết cực kì thấp” chị Huyền lý giải việc bỏ cây cà phê để trồng chanh dây.

    Bí ẩn cây chanh dây và các thương lái Trung Quốc ở Chư Sê
    Nhiều nông dân đang bắt đầu chặt bỏ vườn cà phê chăm sóc nhiều năm trời với giá trị hàng trăm triệu đồng để trồng chanh dây.

    Cũng bị hấp dẫn bởi giá chanh dây, gia đình bà Nguyễn Thị Lụa (thị trấn La Kha, La Grai, Gia Lai) đã nhanh chóng chặt bỏ cà phê, cao su để lấy đất trồng 1 ha chanh dây. Bà Lụa cho biết, tổng chi phi đầu tư 1 ha chanh dây của bà với hệ thống tưới nước nhỏ giọt là 200 triệu đồng. Hiện vườn chanh dây của bà đã thu hoạch được 1 tháng nay. Sau khi hái chanh xong, thương lái đến tận vườn thu mua và xuất bán sang Trung Quốc. Và với giá bán như hiện nay, gia đình bà Lụa bỏ túi trên 3 triệu đồng/ngày.

    Bà Lụa nhẩm tính, mỗi năm vườn chanh dây của gia đình bà cho thu hoạch khoảng 90 tấn các loại, tương đương với giá trị của 60 tấn cà phê nhân hiện tại. Trong khi đó, để có 60 tấn cà phê nhân thì phải có khoảng hơn 10 ha đất để trồng. Chính vì vậy, gia đình bà không hề nuối tiếc khi phá vườn cà phê đang cho thu hoạch của nhà mình, và chuẩn bị phá thêm 3 sào cà phê để trồng chanh dây.

    Sự hấp dẫn của giá chanh dây đã khiến nông dân ở các huyện, thị như: Mang Yang, Chư Sê, Chư Păh, La Grai… của Gia Lai chặt phá những rẫy cà phê xanh tốt, chuyển sang trồng chanh dây. Và không chỉ có giá quả chanh tăng chóng mặt, mà những dây chanh giống có nguồn gốc từ Trung Quốc cũng đã được “đẩy” lên cao. Cách đây chừng vài ngày, giá dây chanh giống từ 36 nghìn đồng/dây thì nay đã tăng lên 44 nghìn đồng/dây.

    Chuyện có bất thường?

    Chị Mai Thị Nhung – Phó Chủ tịch UBND xã Hải Yang (Mang Yang) cho biết: Cuối năm 2015, tổng diện tích trồng chanh dây trên địa bàn xã là 39,4 ha. Hiện nay, số diện tích trồng chanh dây đã tăng lên khá nhiều. Điều khiến chị lo ngại là giá quả và giống chanh dây hiện nay đã tăng một cách chóng mặt, khiến người dân sẵn sàng chặt bỏ cà phê để trồng chanh dây. Trong khi giống cây chanh được mua từ Trung Quốc, quả chanh thì cũng được bán cho các thương lái Trung Quốc.

    Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở NN-PTNT Gia Lai, cây chanh dây trên địa bàn phát triển hoàn toàn tự phát. Người dân thấy có giá nên trồng. Hiện tỉnh có khoảng 301ha chanh dây, trong đó, chỉ riêng năm 2015 đã trồng mới 108 ha và dự báo thời gian tới diện tích sẽ còn tăng.

    Theo Phòng NN-PTNT huyện Đắk Hà (Kon Tum), khoảng 2 – 3 năm trước, nông dân nơi đây cũng ồ ạt trồng chanh dây. Đỉnh điểm có hộ trồng cả 4 – 5 ha. Sau 1 thời gian, cây chanh dây bị “bể”, quả chanh sau khi thu hoạch bán không ai mua nên người dân không trồng nữa. Đến bây giờ, khi giá chanh dây lên cao thì người dân cũng trồng lại. Tuy nhiên, do đã vấp 1 lần nên bây giờ dân thận trọng hơn nên trồng rất ít và nằm rải rác.

    Gia Lai: 'Bi an' cay chanh day va cac thuong lai Trung Quoc
    Quả chanh tăng giá và giá dây giống có nguồn gốc từ Trung Quốc cũng tăng giá cao khiến nhiều nghi vấn đặt ra.

    Các hộ trồng chanh cho biết, khi thu hoạch xong, thương lái đến tận nhà mua rồi xuất bán sang Trung Quốc. Giá cả hoàn toàn do các thương lái này chi phối.

    Ông Nguyễn Văn Khanh, Trưởng phòng NN-PTNT Chư Pưh (Gia Lai) cho biết: Mấy năm trước, ông liên kết nhiều hộ dân xã H’Bông (huyện Chư Sê, Gia Lai) để đầu tư vườn chanh dây 30 triệu đồng. Tuy nhiên, sau 2 năm trồng, nhận thấy chanh dây không “dễ nuốt” khi liên tục mắc đủ bệnh, thậm chí chẳng có thương lái đến mua nên nhóm ông phá chanh, chấp nhận lỗ 10 triệu đồng tiền đầu tư.

    Ông Hà Ngọc Uyển, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Gia Lai cho biết, địa phương chưa có nhà sản xuất chanh dây mà hoàn toàn thông qua lái buôn thu mua vận chuyển sang các vùng khác bán, vì thế giá cả không ổn định, tồn tại nhiều rủi ro.

    “Việc ồ ạt trồng chanh dây còn gây các hệ lụy như sẽ lấn chiếm đất trồng của các cây trồng khác, ảnh hưởng đến quy hoạch nông nghiệp. Nông dân không xác định được đất nào là phù hợp hay không nên cứ trồng, dẫn đến tình trạng sâu bệnh phát triển triển mạnh, gây thiệt hại sản xuất…, ngoài ra còn gây kiệt quệ, thoái hóa, ô nhiễm môi trường đất, mất cân bằng hệ sinh thái”, ông Uyển nói.

    Điều đáng nói, để trồng 1 ha cà phê thì phải mất đến 3 năm mới thu hoạch được, còn 1 ha cao su thì mất đến trên 4 năm, cùng với chi phí lên đến tiền trăm triệu; vậy nhưng, người dân đã không ngần ngại chặt bỏ những vườn cây này để trồng chanh dây, khiến cho việc quy hoạch cây cà phê bị phá vỡ. Trong khi vấn đề tìm đầu ra chắc chắn cho quả chanh dây chưa hề có, vẫn phụ thuộc vào thương lái Trung Quốc.

    Trên thực tế cũng đã có rất nhiều thương vụ tương tự mà người nông dân Việt Nam nếm “trái đắng” từ các thương lái Trung Quốc.

  • Bộ đội chở nước giúp dân giải hạn cho bà con xã H’Bông – huyện Chư Sê

    Bộ đội chở nước giúp dân giải hạn cho bà con xã H’Bông – huyện Chư Sê

    17 chiếc xe chở nước cùng hàng chục cán bộ chiến sĩ của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh phối hợp với Lữ đoàn thông tin 132 (Bộ tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng); Quân đoàn 3; Binh đoàn 15 và 4 công ty cao su đã chở nước về giải cơn khát cho vùng rốn hạn Gia Lai.

    17 chiếc xe gồm 15 xe chở nước tưới, 2 xe chở nước sinh hoạt đã hoạt động hết công suất chở nước cho bà con xã H’Bông (huyện Chư Sê, Gia Lai), vùng đất chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán.

    Nước tưới được các xe lấy từ con kênh của hồ Ayun Hạ, vượt quãng đường hơn chục km, các xe cứ thế nối đuôi nhau về xả vào các hồ nước tại xã H’Bông. Như nắng hạn gặp mưa, người dân xã H’Bông chắt chiu từng giọt nước để tưới cho cây trồng. Nhờ nguồn nước của Bộ đội Cụ Hồ mà nhiều diện tích cây trồng của nhân dân được cứu.

    Vui nhất, vẫn là các giếng chính của làng lâu nay đã trơ đáy, giờ được các xe nước của bộ đội chở về đổ đầy. Từ sáng sớm, hàng trăm người dân, trên lưng gùi đầy can nhựa đã chờ sẵn. Khi những chuyến xe đầu tiên về, niềm vui khôn xiết của bà con khó mà có thể tả nổi. Lâu nay, việc tắm giặt của bà con bị hạn chế rất nhiều do thiếu nước, nay nước đã về bà con có thể sinh hoạt bình thường.

    Trung bình mỗi xe ngày chở 7 chuyến. Mỗi chuyến chở 10 khối nước. Việc chở nước phục vụ dân sẽ được các đơn vị duy trì liên tục khi nào chấm dứt hạn hán.

    Bộ đội chở nước giúp dân giải hạn cho bà con xã H’Bông - huyện Chư Sê
    Bộ đội chở nước giúp dân giải hạn cho bà con xã H’Bông – huyện Chư Sê

    Bộ đội chở nước giúp dân giải hạn cho bà con xã H’Bông - huyện Chư Sê

    Bộ đội chở nước giúp dân giải hạn cho bà con xã H’Bông - huyện Chư Sê

  • Tổng lực chống hạn cho Tây Nguyên

    Tổng lực chống hạn cho Tây Nguyên

    Theo thống kê, hiện toàn Tây Nguyên đã có đến 95.000 ha cây trồng thiếu nước tưới. Trong khi đó, hầu hết các công trình thủy lợi trên địa bàn Tây Nguyên, mực nước chỉ còn 20- 40%. Tây Nguyên đang chứng kiến năm hạn hán khốc liệt nhất trong lịch sử.
    Tổng lực chống hạn cho Tây Nguyên
    Phần lớn những con suối ở Tây Nguyên giờ chỉ còn trơ đáy.
    Tong luc chong han cho Tay Nguyen
    Cà phê đang bị ảnh hưởng nặng nề do hạn.
    Tong luc chong han cho Tay Nguyen
    Diện tích lúa bị mất trắng cũng đang tăng lên hàng ngày.
    Tong luc chong han cho Tay Nguyen
    Người dân ở huyện Chư Sê (Gia Lai) phải đi xa gùi nước về sinh hoạt.

    Dân khát, cây trồng khô héo do hạn

    Tại huyện Chư Prông (Gia Lai), mực nước ở các hồ đều xuống thấp hơn so với mọi năm. Nơi đây có 2 dòng suối chính là suối Ia Lốp và suối Đục thì đều không còn dòng chảy. Hiện cả huyện có khoảng 200 ha diện tích trồng lúa đều bị ảnh hưởng nặng của hạn hán. Trong có có 80 ha lúa bị mất trắng.

    Theo ông Nguyễn Văn Gập – Trưởng phòng NN&PTNN huyện Chư Prông, trong 10 năm trở lại đây, chưa năm nào hiện tượng hạn hán lại diễn ra khốc liệt như năm nay.

    Cũng tương tự tại xã Ayun (huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai), hạn hán đã làm các công trình nước tự chảy ở các làng H’vắt 1, H’vắt 2, Hu Răng 1, Hu Răng 2, Tung Keng 1, Tung Keng 2 và Gia Lâm ngừng chảy từ lâu, khiến hàng trăm hộ dân đang thiếu nước sinh hoạt.

    Tại suối Pết, con suối chính chảy qua xã, bà H’ra cho biết, nước trong các giếng đã cạn từ lâu, giờ chỉ còn nước suối. Đến giờ, suối cũng đã trơ đáy, nước chỉ còn đọng lại thành vũng. Mặc dù nước đục ngầu, nhưng chúng tôi vẫn phải lấy về nấu cơm.

    Tại tỉnh Kon Tum, tình hình cũng không khá hơn. Ở xã Sa Nghĩa (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum), muốn có nước, bà con ở đây phải đi thật sớm để đi lấy. Đến nay, hơn 50% giếng nước của dân ở đây đã cạn trơ đáy. Để có nước sinh hoạt, bà con trong thôn phải tìm nước từ các khe suối nhỏ. Nếu tình trạng nắng nóng còn diễn ra, nguy cơ thiếu nước sinh hoạt của người dân càng thêm trầm trọng.

    Không chỉ thiếu nước sinh hoạt, hàng nghìn hộ dân đang phải căng mình cứu sự sống của cây trồng, giảm thấp nhất thiệt hại nhằm duy trì sự ổn định cuộc sống thường ngày.

    Gia đình anh Lê Văn Phương, thôn Thiên An, xã Ia Blứ, huyện Chư Pưh bỏ ra 50 triệu đồng đào giếng sâu đến 35 mét để lấy nước. Ở thôn Thiên An, nhiều hộ dân đào 2-3 giếng, sâu hơn 100 mét để lấy nước. Nhiều hộ dân huyện Đak Đoa bỏ tiền thuê thợ đào giếng rộng ở đáy để chứa nước; rồi khoan ngang dưới đáy giếng để tìm nguồn nước ít ỏi giải cơn khát cho cây trồng dài ngày với hy vọng trời sẽ sớm đổ mưa.

    Không để dân thiếu đói do hạn

    Tính đến ngày 22/3, tổng diện cây trồng bị của Gia Lai bị hạn trên địa bàn tỉnh là 13.515,6 ha. Trong đó, diện tích lúa là 4.410 ha, mía 2.314 ha, cà phê 4.209,8 ha, hồ tiêu 1.486,7ha, ngô 247 ha, rau màu các loại 80,6 ha; sắn 616,5 ha… Ước thiệt hại do hạn hán gây ra trên địa bàn tỉnh trong vụ Đông Xuân 2015-2016 là khoảng 152 tỷ đồng.

    Một số địa phương thiếu nước sinh hoạt (hơn 7.036 hộ) thuộc địa bàn các huyện Chư Pưh, Chư Sê, Krông Pa, Ia Pa, Kbang, Đắk Pơ, Kông Chro, Chư Prông… Tính đến nay, toàn tỉnh có 14.695 hộ với 64.289 khẩu bị thiếu đói do hạn hán gây ra trong vụ Đông Xuân 2015-2016, trong đó hộ đồng bào dân tộc thiểu số là 11.894 hộ với 61.186 khẩu.

    Còn tại tỉnh Kon Tum hiện có khoảng 4.000 ha cây trồng bị hạn, tập trung chủ yếu ở các loại cây công nghiệp. Toàn tỉnh hiện có 4.142 giếng nước bị cạn kiệt, ảnh hưởng đến khoảng 5.400 hộ. Tỉnh Đắk Lắk, ngay Trung tâm TP. Buôn Ma Thuột có những con phố, đến 2 ngày vẫn không có nước để cấp cho người dân sinh hoạt.

    Dự báo đến cuối tháng 4 vẫn chưa có mưa, toàn tỉnh sẽ có khoảng 80.000 ha cây trồng bị thiệt hại do hạn (trong đó có khoảng 30.000 ha cà phê). Riêng tỉnh Lâm Đồng thiệt hại do hạn hán tương đối nhẹ hơn so với các tỉnh trong khu vực, nhờ vào công tác dự báo chính xác, tổ chức chủ động đón đầu, huy động tổng lực sức dân trong công tác đón hạn và chống hạn.

    Tuy nhiên, toàn tỉnh đã có 1.000 ha cây trồng bị hạn. Dự báo đến cuối tháng tư sẽ có khoảng trên 4.000 ha cây trồng toàn tỉnh bị thiệt hại do hạn và cần khoảng trên 50 tỷ đồng để chống hạn năm 2016.

    Ngày 24/3, Ủy viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sau khi đi thị sát tại các vùng hạn nặng, Phó Thủ tướng chỉ đạo, không để người dân đói, thiếu nước sinh hoạt và dịch bệnh xảy ra.

    Phó Thủ tướng thống nhất phương án ứng 2.000 tấn gạo để kịp thời cứu đói cho nhân dân 4 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông. Các địa phương, Bộ Nông nghiệp và PTNT nhanh chóng hoàn tất thủ tục để trình Thủ tướng phê duyệt, sớm đưa gạo về cho người dân. Đồng thời, hệ thống Ngân hàng phải sớm vào cuộc để giúp nông dân tháo gỡ những khó khăn trong thời điểm này.

  • Phòng chống hạn, mặn: Tuyệt đối không để dân đói, khát

    Phòng chống hạn, mặn: Tuyệt đối không để dân đói, khát

    Trước tình khô hạn ngày càng khốc liệt tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên, ngày 24.3, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng đoàn công tác Chính phủ đã tiến hành thị sát tại tỉnh Gia Lai và tổ chức cuộc họp khẩn với lãnh đạo các tỉnh khu vực này chỉ đạo công tác chống hạn…

    Hạn hán vô cùng nghiêm trọng

    Sáng 24.3, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Cao Đức Phát cùng lãnh đạo tỉnh Gia Lai đã đến thị sát tình hình hạn hán ở hai huyện Chư Pứh và Chư Sê. Báo cáo Phó Thủ tướng, ông Lưu Trung Nghĩa – Chủ tịch UBND huyện Chư Pứh cho biết: Trên địa bàn, tình hình khô hạn và thiếu nước sinh hoạt diễn biến rất phức tạp. Đã có trên 431ha lúa và gần 170ha cây công nghiệp (hồ tiêu, cà phê) bị mất trắng; hơn 5.000 giếng đào bị khô nước với 1.200 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, ước tính thiệt hại gần 20 tỷ đồng.

    Phòng chống hạn, mặn: Tuyệt đối không để dân đói, khát
    Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thị sát cánh đồng lúa khô hạn ở xã Chư Don. Ảnh: Lê Kiến

    Chứng kiến thực tế và nghe các báo cáo, Phó Thủ tướng Nguyễn XuânPhúc nói: Mặc dù biết khu vực Tây Nguyên hạn nặng nhưng đến tận nơi mới thấy tình hình hạn hán là vô cùng nghiêm trọng. Nếu không có biện pháp căn cơ, lâu dài thì trong tương lai người dân sẽ chịu thiệt hại rất lớn…

    Tại cuộc họp, các bộ ngành đều cam kết hỗ trợ tối đa cho các tỉnh Tây Nguyên chống hạn. Bộ Tài chính đảm bảo cung cấp ngay cho các tỉnh Tây Nguyên mỗi tỉnh 500 tấn gạo cứu đói. Đại diện Ngân hàng Nhà nước hứa giãn nợ, khoanh nợ các khoản vay để người dân tập trung nguồn lực đối phó với cơn đại hạn…

    Theo số liệu mới nhất của Bộ NNPTNT: Hiện các hồ chứa nước của khu vực Tây Nguyên chỉ còn khoảng 30-40% so với dung tích thiết kế. Riêng Đăk Lăk đã có 115 hồ cạn nước; Kon Tum 5 hồ, Đăk Nông 17 hồ. Toàn vùng có hơn 7.000ha lúa đã dừng sản xuất, hơn 8.000ha lúa thiếu nước, trên 40.000ha cà phê (hơn 3.000ha mất trắng) và 2.200ha hồ tiêu bị thiếu nước nghiêm trọng.

    Dự kiến, đến cuối tháng 3 không có mưa thì diện tích cây trồng bị ảnh hưởng sẽ tăng lên hơn 160.000ha. Về nước sinh hoạt có gần 28.000 hộ thiếu nước và có thể tăng lên 59.000 hộ trong thời gian tới, nặng nhất là Đăk Lăk với 25.000 hộ…

    Tìm mọi cách để hạn chế thiệt hại

    Sau khi thị sát thực tế, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cuộc họp khẩn với lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên, Ban chỉ đạo Tây Nguyên và các Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên – Môi trường, Ngân hàng nhà nước… để tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng hạn hán trước mắt và giải pháp lâu dài.

    Ông Trần Việt Hùng – Phó Trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo Tây Nguyên Kiến nghị: Tây Nguyên nước mặt đang cạn kiệt, hiện tượng tụt mạch nước ngầm xảy ra nghiêm trọng. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành và các địa phương thống kê lại hệ thống thủy điện ở khu vực Tây Nguyên để có giải pháp cụ thể trong việc điều phối nguồn nước.

    Không thể vì lợi ích trước mắt mà phát triển bằng mọi giá. Thậm chí phải dùng biện pháp mạnh dừng các thủy điện gây ảnh hưởng lớn cho hệ sinh thái và đời sống của người dân. Một ví dụ điển hình là Thủy điện An Khê – KaNak làm nước chuyển dòng đưa về Bình Định khiến hàng nghìn hộ dân dọc dòng sông Ba – Gia Lai thiếu nước nghiêm trọng…

    Ông Võ Ngọc Thành – Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai đề nghị: Mặc dù đã huy động mọi nguồn lực để chống hạn nhưng con số thiệt hại của Gia Lai đã trên 151 tỷ đồng; trên 13.000 hộ đang đối mặt với nguy cơ thiếu đói. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ tỉnh 10.500 tấn gạo cứu đói; hỗ trợ kinh phí chở nước, mua xăng dầu phục vụ nạo vét kênh mương, bơm nước cho người dân và cấp kinh phí xây dựng hai công trình thủy lợi Chư Pứh, Đăk Pơ…

    Sau khi lắng nghe lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên báo cáo tình hình và đề xuất, kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo: Ngoài các giải pháp khắc phục trước mắt, đề nghị các địa phương tìm mọi cách để hạn chế thiệt hại, tuyệt đối không để dân đói, dân khát, dịch bệnh xảy ra; không để người dân tái nghèo. Các công trình thủy điện, thủy lợi trên địa bàn phải triệt để tuân thủ quy trình điều tiết nguồn nước. Chủ tịch UBND các tỉnh phải giám sát chặt chẽ quy trình này. Chính phủ sẽ xem xét việc đề nghị nâng cấp, xây mới các công trình thủy lợi của địa phương để có kế sách chống hạn lâu dài…

  • Hỗ trợ dân 4 tỉnh Tây Nguyên 2.000 tấn gạo

    Hỗ trợ dân 4 tỉnh Tây Nguyên 2.000 tấn gạo

    Làm việc với lãnh đạo 5 tỉnh Tây Nguyên ngay sau cuộc thị sát tình hình hạn hán tại Gia Lai, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu có giải pháp khắc phục nắng hạn khắc nghiệt với phương châm không để dân khát, dân đói và bị dịch bệnh do nắng hạn gay gắt gây ra.
    Hỗ trợ dân 4 tỉnh Tây Nguyên 2.000 tấn gạo
    Phó thủ tướng động viên cán bộ, chiến sĩ Tỉnh đội Gia Lai giúp người dân Chư Sê chống hạn – (Ảnh: Trần Hiếu/TNO)

    Theo Phó Thủ tướng, các bộ, ngành, địa phương phải điều tra, quy hoạch việc sử dụng nguồn nước ở Tây Nguyên. Trước mắt, phải vận động, tuyên truyền nhân dân sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nước cho sinh hoạt, vật nuôi và cây trồng. Hệ thống ngân hàng vào cuộc xem xét hoãn, giãn cho dân các khoản vay để vượt qua lúc khó khăn này.

    Phó Thủ tướng đồng ý hỗ trợ 4 tỉnh Tây Nguyên mỗi tỉnh 500 tấn gạo cấp cho nhân dân; đồng thời chỉ đạo các đơn vị quân đội có giải pháp hỗ trợ người dân, báo cáo Bộ Quốc phòng xem xét nếu vượt quá thẩm quyền của quân khu. Bên cạnh đó, quan tâm đến việc phòng chống cháy rừng, chủ động kiểm tra, đánh giá thường xuyên, xuống tận cơ sở để nắm bắt tình hình, cuộc sống của người dân để có giải pháp kịp thời.