Chiều ngày 19/6, một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng giữa xe khách và xe ô tô tải trên đường Hồ Chí Minh đoạn qua Gia Lai, khiến nhiều người bị thương.
Hiện trường vụ tai nạn
Vào khoảng 16h20, trên đường Hồ Chí Minh đoạn qua xã Ia Glai, huyện Chư Sê (Gia Lai) chiếc xe khách BKS 93B-00529 do tài xế Nguyễn Viết Linh (37 tuổi, trú tại thị xã Buôn Hồ, Đắk Lắk) điều khiển, trên xe còn có 1 phụ xe và 3 hành khách.
Xe khách đang lưu thông hướng Chư Sê đi TP Pleiku đã xảy ra va chạm cực mạnh với chiếc xe tải BKS 89C-09274 do tài xế tên Việt (25 tuổi) cùng phụ xe Thịnh Văn Tuấn (35 tuổi, cùng trú tại Hưng Yên) lưu thông theo ngược lại.
Hậu quả của vụ tai nạn, khiến tài xế và phụ xe tải bị thương nặng phải đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Hành khách trên chiếc xe khách chỉ bị thương nhẹ. Chiếc xe khách sau cú tông đã lao thẳng xuống vệ đường, còn chiếc xe tải bị bẹp dúm phần đầu.
Nhận được tin báo, Công an huyện Chư Sê đã có mặt để điều tiết giao thông, điều tra làm rõ vụ việc.
Sáng 19-6, Chủ tịch UBND huyện Chư Sê ông Nguyễn Hồng Linh cho biết, ông Lê Đức Quảng, cha của Trung úy Lê Đức Lam, 1 trong 9 sĩ quan có mặt trên chiếc máy bay CASA 212 tìm kiếm cứu nạn máy bay Su 30, bị rơi trên Biển Đông hôm 16-6 đã lên đường ra Hải Phòng theo đề nghị của đơn vị Trung úy Lam.
Một trong 9 sĩ quan trên máy bay CASA 212 là người Gia Lai
Gia đình ông Quảng là công nhân Nông trường Cà phê Ia Pát, hiện cư trú ở thôn 1 xã Ia Pa, Chư Sê, Gia Lai.
Quê ở Hải Dương, song ông Quảng đã vào Gia Lai từ năm 1978, Trung úy Lam sinh ra và lớn lên ở Ia Pát, Chư Sê, là con đầu trong gia đình có 4 anh em. Hiện cả cha mẹ và các em của Trung úy Lam đang có mặt ở Hải Phòng để trông chờ tin từ các lực lượng tìm kiếm cứu nạn các sĩ quan trên chiếc máy bay trên.
15 năm qua, nói về xuất khẩu hồ tiêu, Việt Nam luôn dẫn đầu thế giới. Nhưng có một thực tế đáng lo ngại, việc đua nhau trồng thứ cây “vàng đen” này có thể khiến người dân trả giá đắt.
Kết thúc niên vụ 2015, ngành hồ tiêu cả nước nói chung, khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ nói riêng đạt nhiều kết quả khởi sắc. Cùng với lượng xuất khẩu chiếm 58% thị phần toàn cầu với hơn 150 nghìn tấn, tăng hơn 15% so với năm trước thì đây cũng là thời điểm hồ tiêu Việt Nam gia nhập “câu lạc bộ tỷ đô” bởi xuất khẩu đem lại doanh thu hơn 1,2 tỷ USD. Đóng góp vào thành công này phải kể đến khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với sản lượng chiếm 95% số hồ tiêu toàn quốc.
Ngành hồ tiêu có nguy cơ trả giá đắt
Nhiều nông dân giàu nhanh nhờ trồng hồ tiêu.
Theo ghi nhận của chúng tôi, những năm gần đây nông dân hai khu vực này mạnh dạn chuyển đổi các loại cây trồng để trồng hồ tiêu vươn lên làm giàu. Gia đình anh Trần Quang Nghĩa, xã Ia Blang, H. Chư Sê mới trồng tiêu được vài năm, nay đã là tỷ phú. Năm 2014 và 2015, thu nhập từ loại cây này mang lại cho gia đình anh hơn 4 tỷ đồng. Nhà lầu, xe hơi anh đều sắm được. Tương tự, gia đình anh Tiến Tình, thị trấn Chư Sê cũng trở thành một “đại gia” hồ tiêu chỉ sau hơn 10 năm. Bắt đầu trồng loại cây này từ năm 2004, đến nay, anh Tình đã sở hữu tới 25ha cây “vàng đen”, trong đó vụ mùa 2015 anh thu được hơn 60 tấn tiêu (giá hơn 230.000 đồng/kg), tức thu nhập gần 14 tỷ đồng.
Rõ ràng, nông dân trồng hồ tiêu đang ở trên đỉnh cao của sự thành công. Nhưng ngặt một điều, đang lúc đỉnh cao thì cũng là lúc ngành này đối diện với nhiều nguy cơ “đổ vỡ”, mà chuyện chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm là nguy cơ lớn nhất. Như năm 2014 và 2015, nhiều nhà nhập khẩu gia vị lớn tại Châu Âu, Mỹ, đã gửi cảnh báo đến Việt Nam, yêu cầu siết chặt chất lượng hồ tiêu. Lý do họ đưa ra là phát hiện dư lượng carbendazim trong sản phẩm này vượt ngưỡng cho phép. Carbendazim là một chuyển hóa chất của benomyl, được sử dụng rộng rãi như một loại thuốc diệt nấm, rỉ sắt…
Một số dư lượng hóa chất khác như Permethrin (diệt côn trùng), Propamocarb (diệt nấm) cũng được cảnh báo xuất hiện phổ biến trong sản phẩm hồ tiêu nước ta. Chính vì vậy, từ năm 2014 đến nay, thị trường Châu Âu giảm mạnh lượng nhập khẩu sản phẩm hồ tiêu của việt Nam, thậm chí một số lô hàng nhập vào thị trường này còn bị trả về, doanh nghiệp Việt Nam phải chịu mọi phí tổn. Trong đó, Đức là nước giảm mạnh nhất, từ 11.000 tấn năm 2014, xuống còn khoảng gần 6.000 tấn trong năm 2015.
Tình hình ngày càng diễn biến xấu đi, khi những tháng đầu năm 2016, nhiều thị trường quốc tế đều giảm lượng nhập khẩu hồ tiêu của Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Hòa, Phó cục trưởng Cục trồng trọt, Bộ NN&PTNT, trong chuyến công tác tại Tây Nguyên khuyến cáo: Đây là những thị trường rất tốt của Việt Nam, nếu họ từ chối tiêu thụ hồ tiêu Việt Nam thì đấy là thiệt hại rất lớn đối với nông dân cũng như nền kinh tế nông nghiệp của chúng ta. Do vậy, đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có chỉ đạo sát sao và chính bà con nông dân là những người thực hiện cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện cho tốt, bởi vì chúng ta biết, đây là sản phẩm đòi hỏi rất nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm.
Ngành hồ tiêu có nguy cơ trả giá đắt
Một nông dân ở Gia Lai bên vườn hồ tiêu đang chết dần.
Cảnh báo từ bức tranh quy hoạch
Không chỉ đối mặt với nỗi lo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, việc ồ ạt tăng diện tích trồng hồ tiêu nhưng không quan tâm đến quy trình canh tác dẫn đến bệnh hại tràn lan đang là nguy cơ khiến ngành hồ tiêu “tuột dốc”. Nếu như năm 2000, cả nước chỉ có khoảng 28.000 ha hồ tiêu thì năm 2010 đã tăng lên 51.000 ha và tính đến đầu năm 2016, con số đã hơn 85.000 ha (vượt 35.000 ha so với quy hoạch đến năm 2020). Trong số đó, riêng khu vực Tây Nguyên chiếm tới 50.000 ha, và hầu hết các địa phương đều vượt nhiều diện tích so với quy hoạch, nhất là tỉnh Gia Lai. Quy hoạch trồng hồ tiêu của tỉnh này đến năm 2020 chỉ khoảng 6.000 ha thì nay đã tăng lên: 13.000 ha.
Điều đó cho thấy rõ, bức tranh vỡ quy hoạch đang hiện diện rõ trên bản đồ cây hồ tiêu cả nước. Và nếu nông dân tiếp tục trồng ồ ạt, quy hoạch sẽ tiếp tục “vỡ trận”. Đáng nói hơn, nhiều diện tích hồ tiêu trồng mới trên những vùng không phù hợp về đất đai, nguồn nước, dẫn đến hệ lụy phát sinh dịch bệnh rồi lây lan nhanh qua những diện tích hồ tiêu đang thâm canh. Theo ông Nguyễn Gặp, Trưởng phòng NN&PTNT H. Chư Prông, tỉnh Gia Lai, do giá tiêu tăng mạnh, nên người dân chạy theo về mặt diện tích mà không chú trọng đến việc áp dụng đúng các kỹ thuật trồng, chăm sóc cũng như sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các biện pháp liên hoàn theo đúng quy trình của cơ quan chuyên môn, dẫn đến tiêu bị chết.
Từ việc đua nhau phát triển cây hồ tiêu, đã có nhiều nông dân phải trả giá đắt. Đang làm ăn khấm khá từ trồng cà-phê, cao su, khi chuyển sang hồ tiêu năm 2013 với 600 trụ, gia đình ông Đinh Gôn, làng Brêp, xã Đăk Jrăng, H. Mang Yang, Gia Lai đã bể nợ bởi hồ tiêu đã chết gần hết. Ông Gôn thừa nhận rằng, thấy nhiều người giàu lên từ hồ tiêu nên đổ tiền của bu theo. Nay mới biết đất của mình không phù hợp để trồng tiêu. Cũng may là ông không chuyển đổi hết toàn bộ cà-phê, bằng không giờ ông Gôn chẳng biết lấy gì mà ăn. Chung bi kịch, anh Đinh Nội, xã Đăk Jrăng, H. Mang Yang bỏ ra cả trăm triệu đồng trồng hồ tiêu, nhưng vì thiếu kinh nghiệm, chăm sóc không quy trình, anh đã ôm trọn trái đắng do vườn tiêu chết hàng loạt. “Mình còn trẻ nên ham làm giàu, nhưng đã thất bại toàn diện, giờ khó mà trả được nợ cho người ta. Mình nhận ra là không phải ai cũng làm giàu được từ cây hồ tiêu” – anh Nội rầu rỉ.
Tìm giải pháp cho loại cây trồng này, những năm qua Bộ NN&PTNT liên tục cử đoàn đi Tây Nguyên và Đông Nam Bộ để họp đánh giá tình hình. Mới đây trong chuyến làm việc ở Tây Nguyên, Bộ trưởng Cao Đức Phát đã đề nghị, việc đầu tiên cần làm ngay là phải kiềm chế lạm phát diện tích cây hồ tiêu. Theo Bộ trưởng, 10 năm qua Bộ nông nghiệp luôn kêu gọi kiềm chế và bây giờ vẫn tiếp tục kêu gọi người nông dân kiềm chế, bởi hồ tiêu là cây trồng lâu năm, nên không thể hướng theo giá 1 năm để trồng. Nếu không kiềm chế, chỉ vài năm nữa sẽ trả giá đắt. Bộ trưởng cũng đề nghị các ngành, các địa phương phải nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật về quản lý giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời tổ chức đội ngũ nòng cốt tới từng buôn làng, tổ chức tập huấn cho nông dân.
Thực tế 10 năm trở lại đây, do giá tiêu tăng cao nên nông dân đổ xô trồng tiêu để thoát nghèo, làm giàu là điều dễ hiểu. Nếu như năm 2006, giá tiêu chỉ khoảng 1.500-2.000USD/tấn thì nay đã là 7.000-9.000USD/tấn. Mức giá này, so với cây công nghiệp khác như cà-phê, cao su, gấp 5-10 lần. Có điều, người dân cũng nên nhìn nhận rõ, rằng phát triển ngành hồ tiêu vốn chứa đựng rất nhiều rủi ro, từ đó tập trung thực hiện tốt các biện pháp canh tác bền vững để tránh sự đổ vỡ của ngành sản xuất mũi nhọn mà nước ta đã duy trì được vị thế số 1 thế giới qua hơn một thập kỷ rưỡi.
Ngoài sự buông lỏng quản lí do kém hiểu biết hoặc cố tình lờ đi sai phạm, cũng phải nhìn nhận thực tế là lỗ hổng, bất cập vẫn còn nhiều tại phần quy định về phân trung vi lượng, phân bón khác trong các Nghị định như 113, 191 trước đây, Nghị định 202 của Chính phủ về quản lí phân bón mới đây. Lỗ hổng trong các nghị định này là xếp chung phân bón và chất cải tạo đất vào cùng danh mục./ Phân bón ‘nửa dơi nửa chuột’ tràn ngập Tây Nguyên
Phân bón ‘nửa dơi, nửa chuột’ tràn ngập thị trường, sao không bị xử lý?
Không phải phân bón, không ra chất cải tạo đất, bao bì nhập nhèm, vi phạm hàng loạt các quy định của Chính phủ về quản lí phân bón và nhãn hàng hóa mà vẫn bày bán tràn lan, công khai nhiều năm qua, thậm chí có sản phẩm còn được đóng cả dấu hợp quy… Thế mà vẫn không bị xử lí.
Mất tiền oan
Là vựa cây công nghiệp XK của Việt Nam với ba sản phẩm chủ lực cà phê, cao su, hồ tiêu, thống kê của Hiệp hội Phân bón Việt Nam, khu vực Tây Nguyên gồm Đăk Lăk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng mỗi năm tiêu thụ hàng triệu tấn phân bón, giá trị lên tới cả tỉ USD.
Đặc biệt, chia sẻ từ các nhà khoa học và qua tài liệu nghiên cứu đã công bố, đất Tây Nguyên có tính chua và rất thiếu trung, vi lượng nên từ nhiều thập niên qua nông dân đã biết sử dụng các sản phẩm phân lân có tính kiềm giàu trung, vi lượng.
Nhận thấy nhu cầu tiêu thụ phân lân còn rất lớn cộng với cơ hội “ngàn năm có một” khi các nghị định về quản lí phân bón liên tục thay đổi trong mấy năm trở lại đây, từ 113 đến 191 và nay là 202 vô tình đã tạo kẽ hở khi công nhận nhóm phân bón mới là trung vi lượng, phân bón khác, nhưng chưa có quy chuẩn tiêu chuẩn và phương pháp thử đi kèm.
Thế là thời gian ngắn, các DN sản xuất phân bón rất thông minh, nhạy bén khi ào ạt tung ra thị trường các sản phẩm phân bón “nửa dơi nửa chuột” như lân vôi – canxi – magie – silic – super lân vôi… nhưng thực tế là chất cải tạo đất.
Bởi nếu chỉ bằng phương pháp nghiền đá vôi, dolomite, quặng secpentin, quặng apatit, đất sét, cao lanh, cát… thành bột, rồi phối trộn đóng vào bao đã trở thành phân bón trung, vi lượng như nhiều DN đang làm hiện nay thì cần gì phải đầu tư hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng xây dựng các nhà máy sản xuất phân lân hay DAP cho tốn kém.
Thực tế, bản thân trong quặng apatit loại 1, loại 2, loại 3 có sẵn hàm lượng lân tổng số từ 12 – 34 %; cát có tới 70% silic, quặng secpentin lên tới 44% silic tổng số, magie tổng số ≥ 32%; đá vôi chứa 80 – 90% canxi tổng số; trong quặng dolomite magie, silic tổng số cũng lên tới hàng chục %…
Nhưng, nếu chưa qua công nghệ chế biến để chuyển thành dạng hữu hiệu cây trồng dễ dàng hấp thụ được, các nguyên liệu trên vẫn chỉ là chất cải tạo đất.
Kém hiểu biết hoặc cố tình lờ đi?
Vi phạm đã rõ như ban ngày, tại sao các sản phẩm “nửa dơi nửa chuột” đó có thể tìm thấy ở bất kỳ đại lí phân bón nào tại Tây Nguyên mà không bị xử lí? Trách nhiệm đầu tiên thuộc Cục Quản lí thị trường (Bộ Công thương) và Chi cục QLTT 5 tỉnh Tây Nguyên.
Ngoài sự buông lỏng quản lí do kém hiểu biết hoặc cố tình lờ đi sai phạm, cũng phải nhìn nhận thực tế là lỗ hổng, bất cập vẫn còn nhiều tại phần quy định về phân trung vi lượng, phân bón khác trong các Nghị định như 113, 191 trước đây, Nghị định 202 của Chính phủ về quản lí phân bón mới đây.
Lỗ hổng trong các nghị định này là xếp chung phân bón và chất cải tạo đất vào cùng danh mục.
Bên cạnh đó, các đại lí phân bón cũng tiếp tay cho các DN cuốc xẻng bán hàng kém chất lượng. Đa phần người trồng cà phê, hồ tiêu, cao su tại Tây Nguyên mua chịu phân bón đến lúc thu hoạch sản phẩm. Do phụ thuộc kinh tế nên bà con phải chấp nhận dùng phân bón theo “tư vấn” của đại lí bảo lãnh.
Đặc biệt, hầu hết DN phân bón cuốc xẻng đều áp dụng chính sách bán hàng ký gửi kho, tiền thanh toán sau, nhưng lợi nhuận chiết khấu cao hơn sản phẩm của DN lớn, uy tín hàng chục lần nên nhiều đại lí bị tiền làm mờ mắt.
Chủ đại lí phân bón ở xã Ea Tu, TP Buôn Mê Thuột, Đăk Lăk chia sẻ, bình thường bán 1 bao phân của DN lớn chỉ được lãi 5.000 – 6.000 đồng, nhưng bán của các DN ít tên tuổi được chiết khấu tới 30.000 – 40.000 đồng/bao 50 kg. Anh không ngại giấu diếm mà nói thẳng, có cơ hội là anh bán sản phẩm có lợi nhuận cao hơn.
Chuyên phân phối các sản phẩm phân bón uy tín của các DN lớn, song chủ đại lí phân bón Toan Hoa ở thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, Gia Lai tâm sự, rất nhiều DN đến đại lí chào hàng với chính sách ưu đãi không thể tốt hơn.
Tuy nhiên, khi yêu cầu cung cấp các giấy tờ hợp lệ, đa phần họ chỉ dám ký hợp đồng dưới dạng cung cấp nguyên liệu, song phân bón chuyển đến lại dưới dạng đã thành phẩm nên nhiều đại lí đã bị xử phạt oan vì mánh khóe, chiêu trò này.
Quá trình khảo sát hàng loạt đại lí phân bón tại 5 tỉnh Tây Nguyên, chúng tôi thấy rất nhiều sản phẩm phân bón “nửa dơi nửa chuột” được đóng dấu hợp quy trên bao bì sản phẩm. Không hiểu dấu hợp quy đó thật hay giả?
Nếu thật cần phải xem lại chuyên môn, năng lực của các đơn vị được chỉ định kiểm nghiệm, phân tích cũng như địa phương, ban ngành nào đã cấp chứng nhận hợp quy cho những sản phẩm này.
Đề xuất thành lập sàn giao dịch hồ tiêu Việt Nam tại TP.HCM của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) gửi Bộ NNPTNT đang nhận được những phản hồi tích cực từ phía người nông dân trồng tiêu với kỳ vọng sẽ chủ động được về giá cả.
Bây giờ mới lập là chậm?
Tại hội nghị ngành hồ tiêu Việt Nam tổ chức mới đây, ông Đỗ Hà Nam – Chủ tịch VPA cho biết, trước đó Bộ NNPTNT cùng đại diện VPA đã tham quan mô hình hoạt động của sàn giao dịch hồ tiêu của Ấn Độ và thấy sàn giao dịch này hoạt động hiệu quả. Vì thế, tại cuộc họp Cộng đồng Hồ tiêu quốc tế (IPC) lần thứ 43 vào cuối tháng 11 tại Ấn Độ, Việt Nam và Ấn Độ đã có biên bản ghi nhớ về việc cùng hợp tác để xây dựng sàn giao dịch hồ tiêu đặt tại TP.HCM.
Phía Ấn Độ cam kết sẽ hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn xây dựng sàn giao dịch. “Sàn này sẽ giao dịch cả hàng thật lẫn “hàng giấy”, khi đó chúng ta có thể bán tiêu theo hình thức giá đấu giá chứ không phải đàm phán giá mua và bán như lâu nay. Như vậy, sẽ giúp giá hồ tiêu của Việt Nam cao hơn so với hiện nay” – ông Nam giải thích thêm.
Vườn tiêu của nông dân ở xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Ảnh: Q.H
Liên quan đến đề xuất của VPA gửi Bộ NNPTNT về thành lập sàn giao dịch hồ tiêu Việt Nam, ông Hoàng Phước Bính – Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê (Gia Lai) cho rằng, bây giờ mới thành lập sàn giao dịch đã là rất chậm. Cụ thể, theo ông Bính, Chính phủ Ấn Độ và nhất là Bộ Nông nghiệp, Hiệp hội Gia vị Ấn Độ cùng đề xuất phía Việt Nam thành lập sàn giao dịch vì thực tế sàn giao dịch bên Ấn Độ không có “hàng thật” mà chỉ có “hàng giấy”. Muốn sàn này tồn tại thì phải có đủ cả 2 loại hàng này mà Việt Nam đang rất có lợi thế bởi đang là nước sản xuất hồ tiêu lớn nhất thế giới (chiếm khoảng 60% sản lượng xuất khẩu).
Cũng theo ông Bính, cái khó khi thành lập sàn giao dịch là về thủ tục pháp lý, quy trình, công tác tổ chức điều hành… còn về phía người nông dân trồng tiêu thì cực kỳ có lợi. Lâu nay người nông dân chỉ biết sản xuất và bán cho thương lái, bây giờ có sàn giao dịch thì họ có thể trực tiếp giao dịch trên sàn và chủ động được giá bán.
“Dự báo trong 8 năm tới của Hiệp hội Hồ tiêu thế giới (IPC), Việt Nam sẽ tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu nên việc thành lập sàn giao dịch này sẽ giúp Việt Nam có thêm sức mạnh chi phối thương mại hồ tiêu toàn cầu”.
Ông Hoàng Phước Bính – Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê
Tuy nhiên, sáng 23.5, ông Trần Đức Tụng – Chánh văn phòng VPA cho biết, đề xuất thành lập sàn giao dịch đã được VPA gửi nhưng chưa có phản hồi từ Bộ NNPTNT.
Nông dân kỳ vọng
Liên quan đến đề xuất thành lập sàn giao dịch hồ tiêu Việt Nam, anh Trần Hữu Thắng – nông dân trồng tiêu giỏi (có 3,2ha tiêu ở ấp Thọ Lộc, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai) nói, lâu nay sản phẩm tiêu được nông dân bán qua thương lái hoặc giới thiệu từ công ty này, công ty kia. Vì vậy giá thành nhiều khi cũng không ổn định, lên xuống theo nhu cầu của thương lái, doanh nghiệp. “Vì vậy tôi cũng mong muốn mau chóng có sàn giao dịch để người nông dân có thể chủ động về giá cả chứ không còn phụ thuộc người mua nữa” – anh Thắng nói.
Tương tự, ông Đặng Văn Chính – người trồng tiêu ở xã Tân Thành (Bù Đốp, Bình Phước) cũng cho biết, nếu có sàn giao dịch mà chủ động được giá bán thì ông rất ủng hộ. Tuy nhiên, ông chỉ sợ ở đây sẽ có quy định về sản lượng giao dịch thì sẽ khó cho nông dân, và nếu giá chỉ “nhỉnh” hơn tý mà mất chi phí vận chuyển nữa thì sẽ không thu hút nông dân tham gia.
Đây cũng chính là điều mà các chuyên gia kinh tế quan tâm, tính hiệu quả của sàn. Bởi trước đây đã có nhiều sàn giao dịch cà phê, cao su, điều… – những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế thì hiệu quả mang lại không như kỳ vọng vì có rất ít nông dân sau khi thu hoạch mang sản phẩm của mình đến những sàn giao dịch này để mua bán. Nông dân “ngại” tiếp xúc công nghệ, “ngại” vận chuyển tốn chi phí… Thay vào đó, họ chọn gọi điện cho thương lái để thống nhất giá và thương lái chỉ việc mang xe đến nhà chở nông sản đi. Đây cũng là bài toán cần được giải khi thành lập sàn hồ tiêu.
Làm thế nào để khôi phục lại cây trồng sau thời gian dài bị hạn hán, cũng như việc chống ngập úng và dịch bệnh vào đầu mùa mưa đang được người dân Tây Nguyên đặc biệt quan tâm vào lúc này.
Nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, ngày 26/5, Bộ NN&PTNN phối hợp với UBND tỉnh Gia Lai tổ chức diễn đàn “giải pháp khôi phục sản xuất cà phê, hồ tiêu sau hạn hán kéo dài ở khu vực Tây Nguyên”.
Gần 300 đại biểu, nông dân đến từ 5 tỉnh Tây Nguyên đã có mặt tại diễn đàn với mong muốn được các chuyên gia chia sẻ những kinh nghiệm trong việc khắc phục lại cây trồng sau khi bị ảnh hưởng nặng nề của đợt hạn hán lịch sử vừa qua.
Bên cạnh đó là những giải pháp phòng chống tình trạng ngập úng cũng như dịch bệnh hoành hành khi vào đầu mùa mưa.
Cứu những cây trồng có khả năng phục hồi
Năm 2016 được xem là năm khô hạn khốc liệt nhất ở các tỉnh Tây Nguyên trong vòng 30 năm qua. Tình hình hạn hán kéo dài đã làm cho nguồn nước tưới bị thiếu hụt, gây thiệt hại hàng trăm héc ta cây trồng.
Theo thống kê của Cục trồng trọt Bộ NN&PTNT, Tây Nguyên có khoảng 165.000 ha cây trồng nông nghiệp bị tác hại của hạn hán, chủ yếu là cây cà phê và tiêu với 110.000 ha bị ảnh hưởng ở mức độ khác nhau. Thậm chí, diện tích cây trồng mất trắng gần 8.000 héc ta. Đắl Lắk là tỉnh ảnh hưởng trầm trọng nhất của hạn hán với diện tích cây cà phê ước đạt 7.000 ha, kế đến là Đắk Nông và Gia Lai.
Hạn hán đã cướp đi nhiều héc ta cà phê của người dân
Ông Cao Văn Huân (xã Ia H’Bông, huyện Chư Sê, Gia Lai) cho biết, cả gia đình sống dựa vào 3 héc ta cà phê, đợt hạn hán vừa qua chúng tôi phải chặt bỏ mất 1/3 để trồng mới, số còn lại đành phó mặc cho trời. Rất may, mấy ngày vừa qua bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu mùa khiến gia đình tôi rất vui mừng. Trước mắt chúng tôi cũng như người dân trong vùng sẽ phải tìm cách chăm bón cây cà phê cho tốt để không bị thiệt hại thêm nữa.
Đề cập đến vấn đề phục hồi cây trồng sau hạn hán, Tiến sĩ Hoàng Thanh Tiệm – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, đối với diện tích cà phê bị chết toàn bộ, cách tốt nhất cưa đốn để phục hồi. Cụ thể, vào đầu mùa mưa nên tiến hành cưa đốn toàn bộ thân cây cách mặt đất từ 30-40 cm, sau đó nuôi từ 1-2 chồi/ gốc để thay thế cho thân cây cũ bị cắt bỏ. Sau đó tiến hành cày bừa giữa 2 hàng cà phê để trồng cây ngắn ngày trong lúc chờ đợi cây cà phê lớn.
Cùng chung quan điểm đó, ông Trương Hồng – Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây nguyên cho biết, đối với vườn cà phê bị thiệt hại nặng như lá cành đã bị khô, không có khả năng thu hoạch nên cưa đốn phục hồi hoặc ghép cải tảo.
Việc cưa đốn phục hồi để tái tạo lại hệ thống thân cành mới sẽ cho năng suất đồng đều. Còn trong trường hợp ghép cải tạo khi vườn cà phê có bộ giống không tốt nhưng không bị thối rễ thì nên thì nên ghép cải tạo thay giống tốt đối với vườn cà phê dưới 20 năm tuổi.
Cũng theo ông Hồng, đối với cây trồng bị ảnh hưởng nhẹ của hạn hán thì cần phải duy trì chế độ chăm sóc bằng cách cắt bỏ cành khô, rụng lá giúp cây tập trung dinh dưỡng nuôi các cành mang quả.
Phòng chống ngập úng, dịch bệnh vào mùa mưa
Thiệt hại của đợt hạn hán vẫn chưa nguôi thì người dân lại thêm nỗi lo khi mùa mưa kéo đến. Những cơn mưa chuyển mùa là điều kiện thuận lợi cho loại rệp sáp hại quả phát triển nhanh, cùng với đó là tình trạng ngập úng làm thối rễ cây trồng. Làm thế nào để chăm sóc hiệu quả vườn cây cũng đang là bài toán đau đầu đối với người dân.
Chăm sóc cây trồng sau hạn hán cũng rất quan trọng
Liên quan đến vấn đề này, ông Hồng cho biết, vào mùa mưa cần phải thường xuyên bón phân cho cây trồng, cắt tỉa cành tán cho đỡ rậm rạp. Bênh cạnh đó bà con thường xuyên đến thăm vườn để tìm hiểu và phát hiện bệnh nhằm có phương pháp ngăn chặn kịp thời.
Đặc biệt quan tâm đến bệnh rệp sáp gây hại vào đầu mùa mưa. Cụ thể, khi phát hiện khoảng 10% quả trên cây có rệp sáp thì nên dùng máy bơm nước cao áp xịt mạnh vào chùm quả để rửa trôi, sau đó tiến hành phun thuốc.
Trong khi đó, Bà Lê Thu Hiền – Thạc sĩ nghiêm cứu bộ môn bệnh cây – Viện bảo vệ thực vật thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam giải cho biết, khi mưa xuống, bộ rễ cây trồng sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Chính vì vậy, vấn đề đầu tiên cần làm lúc này là khôi phục lại bộ rễ cây trồng. Muốn vậy, cách tốt nhất lúc này không nên dùng phân hóa học mà phải ủ rễ bằng phân chuồng, sau đó bơm thêm chế phẩm sinh học Trichoderma nhằm giảm thiểu bệnh chết nhanh chết chậm. Khi bón phân chuồng được 7-10 ngày thì trộn chế phẩm sinh học Trichderma sẽ mang lại hiệu quả.
Theo các chuyên gia, việc chăm sóc cây trồng khi bắt đầu vào mùa mưa rất quan trọng, người dân cần tìm hiểu kỹ trước khi quyết định sử dụng biện pháp nào cho hiệu quả. Cách tốt nhất nên tìm đến cách chuyên gia để được tư vấn, qua đó giúp cho năng suất đạt hiệu quả cao nhất.
Theo kết quả điều tra ban đầu, từ ngày 9-4 đến ngày 11-5, nhóm đối tượng đã thực hiện 8 vụ lừa đảo bằng thủ đoạn bán vàng giả cho các tiệm vàng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để chiếm đoạt tài sản. Trong đó, vụ chúng chiếm đoạt tài sản lớn nhất trị giá 187 triệu đồng, vụ ít nhất là 31 triệu đồng.
Chiều 23-5, Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Quảng Nam cho biết, vừa bắt khẩn cấp nhóm đối tượng lừa đảo hàng trăm triệu đồng bằng thủ đoạn bán vàng giả cho các tiệm vàng.
Bọn chúng gồm Đặng Xuân Hoa Diễm (31 tuổi, ngụ thôn 1, xã Tân Sơn, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai) và Phạm Ngọc Tuấn (22 tuổi, thôn Mỹ Thạch 3, thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai).
Theo kết quả điều tra ban đầu, từ ngày 9-4 đến ngày 11-5, các đối tượng trên đã cùng với Phan Văn Hoàn (31 tuổi, ngụ thôn 3, xã Biển Hồ, TP Pleiku) thực hiện 8 vụ lừa đảo bằng thủ đoạn bán vàng giả cho các tiệm vàng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để chiếm đoạt tài sản. Trong đó, vụ chúng chiếm đoạt tài sản lớn nhất trị giá 187 triệu đồng, vụ ít nhất là 31 triệu đồng.
Đối tượng Diễm và Tuấn.
Riêng trong ngày 11-5, các đối tượng đã thực hiện liên tiếp 4 vụ lừa đảo tại tiệm vàng Vĩnh Lợi (TP Tam Kỳ, Quảng Nam), tiệm vàng Duy Phương và tiệm vàng Ngọc Trưởng (huyện Núi Thành, Quảng Nam); trong đó tiệm vàng Duy Phương bị lừa đảo 2 lần với số tiền 76,190 triệu đồng. Khi các đối tượng đến tiệm vàng Ngọc Trưởng để tiếp tục bán vàng giả thì bị chủ tiệm vàng phát hiện và báo Công an bắt giữ.
Được biết, các đối tượng Diễm, Tuấn và Hoàn đều không có nghề nghiệp, đi lang thang khắp nơi để lừa đảo. Trong đó, đối tượng Hoàn có 2 tiền án, đối tượng Tuấn có 1 tiền án.
Hiện Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Quảng Nam đang tiếp tục điều tra, mở rộng vụ án.
Thời gian qua, nhiều cơ quan hành chính Nhà nước sử dụng cách kênh thông tin mạng xã hội như: facebook, zalo…
Dùng mạng xã hội thu thập thông tin ATGT
Tiếp nhận thông tin người dân qua facebook về đường từ xã Ia Siêm vào Chư Rcăm (huyện Krông Pa) vừa làm xong, chưa nghiệm thu đã hư hỏng, Ban ATGT Gia Lai đã xuống kiểm tra và chỉ đạo xử lý
để nắm bắt phản ánh của người dân. Tại Gia Lai, các thành viên Ban ATGT tỉnh cũng đã dùng mạng xã hội để thu thập hiệu quả thông tin ATGT trên địa bàn.
Thông tin ATGT từ mạng xã hội
Trung tuần tháng 4, một người dân tại huyện huyện Krông Pa phản ánh trên facebook tình trạng con đường từ Ia Siêm vào Chư Rcăm vừa làm xong, chưa nghiệm thu đã hư hỏng. Tiếp nhận thông tin, Ban ATGT tỉnh Gia Lai đã cử cán bộ chuyên trách khảo sát thực tế và nhận thấy, thông tin trên facebook là có thật. Ngay sau đó, Ban ATGT tỉnh đã có thông tin tới Sở GTVT để Sở đề nghị huyện Krông Pa và đơn vị thi công phải khắc phục tình trạng hư hỏng, nếu không Sở GTVT sẽ không cho phép nghiệm thu.
Tháng 3, trên facebook có thông tin về cây cầu gỗ từ trung tâm huyện Chư Sê đi vào xã Ia Hlop bị hư hỏng, mất ATGT. Tiếp nhận thông tin, ngày 23/3, Ban ATGT tỉnh trong lúc làm việc ở huyện Chư Sê đã tranh thủ đi kiểm tra, thấy thực tế có trùng khớp với thông tin trên facebook, đã đề nghị địa phương khắc phục hư hỏng. Chỉ một ngày sau, huyện Chư Sê đã nhanh chóng xử lý hư hỏng cây cầu gỗ, đảm bảo cho người dân đi lại.
Ông Nguyễn Hữu Quế, Giám đốc Sở GTVT , Phó ban thường trực Ban ATGT tỉnh Gia Lai nhìn nhận, mạng xã hội là một kênh thông tin đa chiều giúp ích cho việc nắm bắt thông tin phản ánh của nhân dân, giúp các thành viên Ban ATGT và người dân có sự tương tác hữu hiệu hơn.
Trước đó, một thành viên Ban ATGT tỉnh Gia Lai nhận đượctin nhắn zalo của một người dân phản ánh về tình trạng dùng xe “quá đát” đưa đón học sinh. Ban ATGT tỉnh đã thành lập đoàn kiểm tra liên ngành, gồm: Sở GD&ĐT, Sở GTVT và Công an tỉnh Gia Lai kiểm tra 77 xe ô tô đưa đón học sinh trên địa bàn. Đoàn đã phát hiện có 12 xe thay đổi thiết kế ghế ngồi; 30 xe hoạt động không đăng ký kinh doanh, hai xe hoạt động có giấy phép kinh doanh nhưng không có phù hiệu; 7 xe không có bình chữa cháy, một xe hết hạn bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; 6 xe mua bán nhưng chưa sang tên đổi chủ, một xe hết hạn kiểm định an toàn kỹ thuật; 20 xe không niêm yết tên và số điện thoại chủ sở hữu trên phương tiện; 29 xe hoạt động không ký hợp đồng vận chuyển đưa đón học sinh giữa chủ xe và nhà trường.
“Việc xe ô tô đưa đón học sinh mà không đảm bảo an toàn kỹ thuật, thiếu sự giám sát quản lý từ phía địa phương sẽ tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm. Nếu xảy ra TNGT thì hậu quả không biết sẽ như thế nào. Vì vậy, Ban ATGT đã chỉ đạo cơ quan chuyên ngành yêu cầu các nhà trường, chủ phương tiện phải cam kết sử dụng xe ô tô đưa đón học sinh đúng quy định”, ông Nguyễn Hữu Quế, Giám đốc Sở GTVT , Phó ban thường trực Ban ATGT tỉnh Gia Lai cho biết.
Linh hoạt tiếp nhận thông tin
Ông Phạm Hiếu Trình, Chánh văn phòng Ban ATGT tỉnh Gia Lai cho biết, việc nắm bắt thông tin phản ánh của người dân đến Ban thời gian qua rất nhiều cách như: Điện thoại, nhắn tin, gửi thư hoặc trực tiếp đến tận Ban để phản ánh. Tuy nhiên, gần đây mạng xã hội ngày càng phát triển, nên người dân đã sử dụng cách này phản ánh tới Ban ATGT như một kênh thông tin nhanh, tiện dụng, hiệu quả. Qua zalo, facebook, viber… người dân dễ dàng gửi không chỉ thông tin mà cả hình ảnh, video kèm theo.
“Sau khi tiếp nhận thông tin phản ánh từ người dân, Ban ATGT tỉnh đều khẩn trương xác minh sự việc, tham mưu chỉ đạo xử lý dứt điểm, có phản hồi tích cực nên người dân rất tin tưởng”, ông Trình nói.
Ông Trình cho biết thêm, lãnh đạo Ban ATGT tỉnh Gia Lai vừa đề nghị Sở Tài chính tham mưu văn bản trình lãnh đạo phê duyệt để mua 5 máy tính bảng (loại nhỏ cầm tay) giao cho các lãnh đạo thường trực Ban ATGT quản lý, sử dụng. Các máy tính bảng này nhằm mục đích tiếp nhận, cập nhật thông tin từ phản ánh của người dân từ facebook, zalo… Về kinh phí thực hiện chi trả cước hàng tháng do Ban ATGT tỉnh trích kinh phí hoạt động thực hiện.
Mô hình tưới tiết kiệm rất hiệu quả bởi đất không bị nén; mặt đất luôn giữ được độ ẩm, tiết kiệm nước và phân bón Sự kiện: Nâng cao năng suất chất lượng
Theo TTXVN, tỉnh Gia Lai hiện có khoảng 15.000 ha hồ tiêu, vượt so với quy hoạch 9.000 ha (quy hoạch của tỉnh Gia Lai đến năm 2020 giữ ở mức 6.000 ha tiêu) tập trung chủ yếu ở Chư Sê 3.500 ha, Chư Pưh 2.600 ha… Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh này đã có gần 1.700 ha hồ tiêu bị ảnh hưởng do hạn; trong đó, có 73 ha bị mất trắng. Do đó, việc áp dụng mô hình tưới tiết kiệm là giải pháp tối ưu và được nhân rộng để duy trì sự phát triển của các vườn hồ tiêu trong cơn đại hạn.
Trong bối cảnh khô hạn khốc liệt đang diễn ra khắp mọi nơi, rất nhiều vườn tiêu đã vàng úa và có thể chết cháy trong nay mai, thì vườn tiêu 3 ha của gia đình anh Lê Hùng Huấn ở thôn An Điền, xã Ia Blang, huyện Chư Sê lại luôn xanh ngát tràn đầy sức sống.
Vòi phun nước tiết kiệm tránh lãng phí nguồn nước mà không ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của cây trồng
Từ xa nhìn vào, vườn tiêu của anh cứ ngắt xanh dưới cái nắng như đổ lửa của cơn đại hạn. Bước vào vườn tiêu, cảm giác man mát đến dễ chịu, không thể nghĩ rằng ở ngoài kia đang hầm hập nóng. Áp dụng mô hình tưới tiết kiệm từ năm 2013, anh Huấn cho biết, đây là mô hình tưới tiết kiệm rất hiệu quả bởi đất không bị nén; mặt đất luôn giữ được độ ẩm, tiết kiệm nước và phân bón, tiết kiệm công tưới, đặc biệt vườn cây phát triển rất tốt.
Khác trong việc áp dụng mô hình tưới tiết kiệm của anh Huấn là không chỉ tưới nhỏ giọt dưới gốc, mà anh còn thiết kế hệ thống tưới phun mưa phía trên cây tiêu. Việc tưới phun mưa trên lá, theo ông Hoàng Phước Bính, Phó chủ tịch Thường trực Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê, là vô cùng cần thiết, bởi hồ tiêu là cây lưỡng tính (tự thụ phấn) nên cần có mưa (nước) tác động để làm rách bao phấn, quá trình thụ phấn sẽ dễ dàng hơn. Ngoài ra, tưới phun mưa còn làm giảm tác hại của những cơn mưa axít, thường xuất hiện vào đầu mùa mưa Tây Nguyên…
Cũng theo anh Huấn, ngoài việc tiết kiệm nước và phân bón đến 40%, tiết kiệm công lao động, hệ thống này còn có tác dụng hạn chế được cỏ dại, hạn chế sự lây lan mầm bệnh trong đất. Mặc dù, năm nay đang cho thu hoạch bói (lần đầu) song chắc chắn năng suất cao hơn hẳn so với số vườn hồ tiêu trong vùng chăm sóc theo cách truyền thống. Phương pháp tưới lý tưởng này đang mở ra cơ hội lớn để bà con nông dân canh tác cây tiêu thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trận nắng nóng lịch sử, kéo dài làm cho nhiều địa phương ở Tây Nguyên đã xơ xác càng thêm xác xơ. Cái đói, cái khát đã thực sự lấp ló ở chân nhà sàn của các buôn xa bản gần.
Cấp gạo cứu đói tại xã Đất Bằng (huyện Krông Pa, Gia Lai)
Mùa khô 2015-2016 kéo dài và vô cùng khốc liệt, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sinh hoạt của hàng chục ngàn hộ dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai, đặc biệt là ở các buôn làng vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Hệ thống ao hồ, sông suối bị cạn kiệt. Những con sông lớn như sông Ba, sông Sê San đang thoi thóp dưới cái nắng đổ lửa. Theo đó, hàng chục ngàn héc-ta cây trồng các loại bị chết và giảm năng suất. Báo cáo cập nhật của các địa phương gửi về tỉnh, số hộ dân thiếu đói giáp hạt và thiếu nước sinh hoạt mỗi ngày một tăng.
Tính đến giữa tháng 4/2016, toàn tỉnh Gia Lai có khoảng 14.000 hộ với trên 61.000 nhân khẩu thiếu đói giáp hạt (trong đó gần 12.000 hộ với trên 54.200 nhân khẩu là đồng bào dân tộc thiểu số).
Bên cạnh việc thiếu đói thì nước sinh hoạt cũng đang là vấn đề nan giải ở nhiều địa phương trong tỉnh. Đã có khoảng 7.000 hộ thiếu nước sinh hoạt, tập trung ở các địa phương như Krông Pa 2.170 hộ, Chư Sê 1.700 hộ, Chư Pưh 1.300 hộ, Đăk Pơ 700 hộ…
Trước tình hình trên, lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Gia Lai đã đưa ra những giải pháp thiết thực, coi việc cứu đói cho dân là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong lúc này. Ông Võ Ngọc Thành – Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, khẳng định: “Bằng mọi giá, không để dân thiếu cái ăn, thiếu nước uống, không để dịch bệnh xảy ra do đói, do thiếu nước sinh hoạt…”.
Theo đó, từ 500 tấn lương thực được Chính phủ hỗ trợ, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các địa phương nhanh chóng chuyển đến tận tay nhân dân ở những vùng thiếu đói với phương châm: Chuyển kịp thời, chuyển đúng địa chỉ! Bên cạnh việc hỗ trợ của cấp trên, các địa phương cũng đã chủ động xuất ngân sách dự phòng, hỗ trợ 240 tấn lương thực, cứu đói cho 1.900 hộ với hơn 9.000 nhân khẩu trong diện cấp thiết.
Hiện tại, tỉnh Gia Lai tiếp tục chỉ đạo các ngành, các địa phương rà soát tình hình thực tế, nắm chắc số hộ, số nhân khẩu bị thiếu đói, số buôn làng bị thiếu nước sinh hoạt. Trên cơ sở đó, tỉnh đã đề nghị Trung ương hỗ trợ hơn 1.500 tấn gạo cứu đói cho dân.
Bên cạnh đó, tỉnh đã chỉ đạo ngành nông nghiệp, các địa phương trên địa bàn tỉnh tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cho sản xuất vụ mùa 2016 được thuận lợi.
Việc giải quyết nước sinh hoạt cho dân cũng được chính quyền các cấp ở Gia Lai triển khai triệt để. Ở những nơi còn nguồn nước thì vận động bà con dùng nước tiết kiệm, san sẻ cho nhau.
Tỉnh đã chi hỗ trợ 1 tỷ đồng cho các địa phương để khai thác nguồn nước. Cùng với chính quyền địa phương, các doanh nghiệp cũng đã xắn tay vào cuộc, gánh vác bớt khó khăn cho nhân dân (như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam…).
Không bị động ngồi chờ sự cứu trợ của cấp trên, các huyện chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời triển khai cứu đói cho nhân dân.
Huyện Krông Pa hỗ trợ đào nhiều giếng nước ở những vùng khô hạn; nạo vét nhiều lòng hồ, hố nước để tìm nguồn nước uống cho đàn gia súc. Với nhưng buôn làng không thể tìm được nguồn nước tại chỗ, huyện đã xuất ngân sách, hỗ trợ mua bồn chứa nước, chở nước đến tận làng cho vào bồn để nhân dân dùng.
Huyện Kông Chro đã xuất ngân sách, hỗ trợ một phần kinh phí, huy động nhân dân nạo vét nhiều giếng đào, sửa chữa một số công trình tự chảy, cung cấp nước sinh hoạt cho hàng trăm hộ dân ở các làng H’tiêng, Cúc Roòng, A Lao, làng Troong…
Huyện Chư Sê trích trên 300 triệu đồng, mua bồn chứa nước cấp cho nhiều làng ở hai xã trọng điểm thiếu nước là Ayun và H’bông, mỗi ngày chở hai chuyến nước đến làng, đảm bảo đủ nước sạch cho nhân dân sử dụng…
Có thể nói, trước những khó khăn mà nhân dân Gia Lai đang phải gánh chịu trong mùa khô khốc liệt này, lãnh đạo tỉnh Gia Lai, chính quyền các cấp trong toàn tỉnh đã huy động tổng lực, trên tinh thần nhanh nhất, chính xác nhất, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn hán gây ra, ưu tiên số một cho việc cứu đói, giải quyết nước sinh hoạt cho nhân dân…
“Chưa năm nào nắng nóng như năm nay. Tình hình này mà kéo dài, chắc là dân chết khát mất thôi, đến trâu bò cũng không còn nước để uống!…”. Đó là nhận xét của nhiều cán bộ xã, cán bộ huyện, và cũng là ca thán…
Người dân buôn Ma Giai chắt từng nước để giặt áo quần
“Chưa năm nào nắng nóng như năm nay. Tình hình này mà kéo dài, chắc là dân chết khát mất thôi, đến trâu bò cũng không còn nước để uống!…”. Đó là nhận xét của nhiều cán bộ xã, cán bộ huyện, và cũng là ca thán của hầu hết nhân dân vùng “chảo lửa” huyện Krông Pa (Gia Lai).
Nơi nào cũng khô khát
Dưới cái nắng như thiêu như đốt của cao điểm mùa khô Tây Nguyên, chúng tôi xuôi quốc lộ 25, về huyện Krông Pa – huyện cuối cùng của tỉnh Gia Lai, giáp ranh với tỉnh Phú Yên. Hai bên đường, cây cỏ héo rũ, đồng ruộng khô cháy vắt không ra giọt nước. Những cánh rừng khộp ở đèo Chư Sê giờ chỉ còn là những quả đồi trơ trụi với đá và… đá.
Đèo Tô Na – phân giới giữa thị xã Ayun Pa và huyện Krông Pa- một thời được nhắc đến với những mỹ danh như Thung Lũng Hồng, Thung Lũng Chân Trời Tím… giờ cũng chỉ là những quả đồi trọc lốc, tỏa ra hơi nóng hầm hập. Nhiệt kế trên xe chỉ nhiệt độ ngoài trời 40,5 độ.
Xuôi đèo Tô Na về huyện Krông Pa, quốc lộ 25 chạy men theo dòng sông Ba. Con sông được mệnh danh là lớn nhất, kỳ vỹ nhất vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ, bây giờ thi thoảng mới gặp được vài đoạn còn chút nước. Mấy chú mục đồng đen nhẻm, mấy chị phụ nữ J’rai nào tắm, nào giặt, nào uống nước cùng với lũ bò ốm đến trơ xương vì thiếu cỏ ăn, thiếu nước uống.
Lòng sông toàn cát là cát. Cát duềnh lên trắng xóa, lóa mắt dưới cái nắng đổ lửa xuống lòng sông cạn kiệt. Nhiều cư dân sống ven sông Ba ra sông, bới những cái giếng đường kính khoảng bốn mươi, năm mươi phân giữa lòng sông, với hy vọng mong manh rằng… dưới cát là nước.
Chúng tôi đến xã Đất Bằng gặp Chủ tịch UBND xã – ông Phan Vũ Hưng, ông Hưng than thở: “Đợt hạn năm nay là trầm trọng nhất từ trước đến nay mà tôi biết”. Xã Đất Bằng có 9 thôn buôn với 957 hộ, 4.302 nhân khẩu. Theo Chủ tịch Hưng thì toàn xã đều bị ảnh hưởng trong đợt nắng nóng gay gắt và kéo dài này, đặc biệt trong đó có 6/9 thôn buôn với trên 300 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng.
Giữa lòng sông Ba
Buôn Ma Giai thuộc xã Đất Bằng của huyện Krông Pa, buôn này giáp ranh với xã Phước Tân (huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên). Buôn có 142 hộ với 629 nhân khẩu, là buôn thiếu nước nghiêm trọng nhất của xã. Hôm nay dân làng hầu như ở nhà vì “không có việc gì để làm. Không có nước, không làm ruộng được. Rẫy thì nắng nóng thiêu cháy hết rồi”, chị La O Thị Mai nói như mếu.
Phụ nữ, trẻ con túm tụm tránh nắng dưới những bóng cây ít ỏi trong làng. K’păh Hon (24 tuổi, dân tộc Chăm) ngồi ngậm điếu thuốc to bằng… ngón tay cái dưới chân nhà sàn. Hon nói: “Cả tháng nay không làm rẫy, làm ruộng được nữa, bọn cháu ở nhà chơi. Hôm nào có người gọi thì đi bốc mỳ lên xe thuê cho người ta, mỗi ngày một trăm ngàn đồng”.
Hon nói thêm: Bình thường dân làng ra suối Ma Sam dưới chân núi La Ông tắm giặt, sau đó gùi nước về làng để ăn uống, bây giờ suối không còn giọt nước.
Chia tay với cơn khát của bà con dân tộc Chăm ở buôn Ma Giai, chúng tôi vòng sang đường Trường Sơn Đông để đến với một “cơn khát” khác mang tên buôn Tối. Buôn Tối (xã Krông Năng, huyện Krông Pa) cách trung tâm huyện hàng chục cây số, là buôn đặc biệt khó khăn với 100% người đồng bào dân tộc thiểu số.
Đường vào buôn Tối cực kỳ khó đi nên gửi xe ô tô ở ngoài, tôi phải thuê một thanh niên J’rai chở vào buôn. Cũng chính vì đường khó đi, thường xuyên bị chia cắt nên buôn Tối bị cô lập như một ốc đảo. Ở cái nơi “ốc đảo” ấy, bà con có vô vàn nỗi lo như kiếm hạt gạo, củ khoai… Giờ 46 hộ dân trong buôn lại cõng thêm nỗi lo nữa là quay quắt với cơn khát.
Cũng như bao buôn làng khác ở Tây Nguyên, khi lập làng, người buôn Tối đã bám vào bờ sông Ba với niềm tin dòng nước mát này sẽ mang lại sự đủ đầy, phồn thịnh cho buôn làng. Vậy mà từ khi con đập thủy điện sừng sững chặn ngang dòng sông Ba phía hạ du (mang tên Thủy điện Sông Ba Hạ), dòng nước cuồn cuộn mát lành, nặng trĩu phù sa ấy đã trở thành một vũng nước đọng. Nước tù ngả màu xanh nhờn nhợt; cây cối, chất thải dồn ứ với nồng nặc mùi xú uế.
Trai làng Alê Phom (buôn Tối) cau có: “Trước kia nước trong vắt, nhà nào cũng ra sông tắm rồi cõng nước về làng uống. Từ khi sông ngừng chảy, tắm giặt xong xà phòng đứng luôn tại chỗ không trôi đi đâu cả, nước thì có mùi hôi tanh, tắm xong nhiều người bị ngứa”. Biết vậy, nhưng người dân buôn Tối vẫn phải tắm ở đấy bởi, muốn tắm rửa ở nơi sạch hơn phải đi cả chục cây số…
Nỗ lực giải khát
Trước cơn khát lịch sử của nhân dân trong huyện, chính quyền các cấp huyện Krông Pa đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm giải cơn khát cho bà con.
Phó Chủ tịch UBND xã Krông Năng – ông Nông Đức Công, cho biết: Chính quyền địa phương đã đầu tư đào giếng nước cho bà con theo Chương trình 135 nhưng cũng chỉ có nước trong mùa mưa, còn mùa khô thì giếng cũng trơ đáy. Bà con chủ yếu đi múc nước ở các khe lạch, sông suối ở xa làng. Huyện cũng đã đầu tư một số giếng khoan, nhưng không khoan được vì gặp đá bàn.
Niềm vui khi nước về buôn Ma Giai
Còn Chủ tịch UBND xã Đất Bằng, ông Phan Vũ Hưng, cho biết: Trước tình hình nắng nóng gay gắt và thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng như hiện nay, xã đã đề nghị và được huyện cho tiến hành múc 22 hố nước lấy nước uống cho gia súc (đàn bò của xã có trên 6.000 con); đầu tư 3 giếng nước ở những lòng suối cạn để phục vụ sinh hoạt cho bà con ở những buôn làng thiếu nước nghiêm trọng.
Ngoài ra, huyện cũng đã cấp cho xã 3 bồn chứa nước (mỗi bồn 2.000 lít), đầu tư cho 3 buôn làng trọng điểm, mỗi ngày, Công ty Đô thị huyện cho xe chở một bồn nước (6.000 lít), đổ vào 3 bồn ở các làng để bà con lấy nước uống. Bên cạnh đó, xã cũng đã tuyên truyền, vận động bà con bảo vệ nguồn nước tại chỗ, sử dụng nước tiết kiệm, biết chia sẻ với nhau trong lúc khó khăn…
Phó Chủ tịch UBND huyện Krông Pa- ông Tạ Chí Khanh, cho biết: “Toàn huyện đang thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Chúng tôi đang nỗ lực tìm mọi nguồn nước để kịp thời cung cấp đến bà con”.
Cũng heo ông Khanh thì huyện đã kịp thời hỗ trợ cho nhân dân bằng nhiều hình thức như xây bể, cấp bồn chứa, lu lằng lọc… Vận động bà con tiết kiệm nước, san sẻ nguồn nước cho nhau…
Khi chúng tôi có mặt ở buôn Ma Giai (xã Đất Bằng), cũng là lúc chiếc xe chở nước của Công ty Đô thị huyện đưa niềm vui đến với dân làng. Mỗi ngày một chuyến, cứ khoảng gần cuối giờ sáng, chiếc xe lại chở nước đến đổ vào chiếc bồn 2.000 lít ở đầu làng. Cả làng từ cụ già, phụ nữ tranh thủ mang can ra lấy nước.
Anh lái xe nói: “Lúc nãy bọn em cấp nước cho trường tiểu học ở làng bên cạnh, khi thấy xe đến, học trò đang học trong lớp chạy túa ra dành nhau lấy nước uống”. Mới biết, những nỗ lực của chính quyền địa phươngphần nào đã giải được cơn khát cho bà con trong lúc này.
Với người Tây Nguyên, nước là yếu tố không thể thiếu (bên cạnh lửa). Chả vậy mà khi lập làng, nhất thiết ngôi làng ấy phải ở bên cạnh một nguồn nước mát; chả vậy mà con gái lớn lên, muốn “bắt” được chồng, phải biết cõng nước từ suối về không rơi một giọt; chả vậy mà tên đất, tên làng ở Tây Nguyên, hầu hết đều bắt nguồn từ chữ “Nước”: Ia (dân tộc J’rai), Đăk (dân tộc Barnah), Ea…
Còn bây giờ, nước là những gì quá đỗi xa xỉ với người dân buôn Tối, buôn Ma Giai, và với rất nhiều buôn làng khác đang trong cơn khát ở Tây Nguyên…
Một cơn mưa khá lớn đã đổ xuống tỉnh Gia Lai vào lúc 18h35 ngày 17.4.
Cơn mưa giúp giải nhiệt oi bức suốt mấy tháng qua. Tuy kéo dài hơn 30 phút nhưng cũng giúp người dân cảm thấy thoải mái. Tại Gia Lai, cơn mưa kéo dọc từ TP.Pleiku trở xuống các huyện Mang Yang, K’Bang và TX.An Khê. Các huyện phía tây Gia Lai như Ia Grai, Đức Cơ… không xuất hiện mưa.
Trong khi đó, Kon Tum được cơn mưa trải đều trên toàn tỉnh.
Theo Đài khí tượng Thủy văn khu vực Tây Nguyên, nguyên nhân gây mưa là do ảnh hưởng nhiễu của đợt không khí lạnh tăng cường ở phía Bắc (gọi là mưa dông nhiệt).
Với lượng mưa chỉ trên dưới 10mm chưa thể đáp ứng là cơn “mưa vàng” nhưng cũng giúp tưới cho cây càphê.
“Chứ giải quyết triệt để vấn đề chưa được. Hồ đập thì cạn, sông thì khô mưa chỉ một ít để gọi là tưới cây, thấm xuống đất mươi centimet chứ nói tạo thêm nước ngầm là chưa có”, ông Nguyễn Trung Thành – Phó Giám đốc Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên nhận định.
Theo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên cơn mưa chỉ xuất hiện trong hai ngày 17-18.4 vì có lượng nhiệt ẩm. Những ngày tiếp theo sẽ không còn xuất hiện mưa.
Nắng hạn khô kiệt hoành hành tại các tỉnh Tây Nguyên nhiều tháng qua. Hàng ngàn người dân các huyện Chư Pứh, Chư Sê, Krông Pa (Gia Lai) thiếu nước sinh hoạt, chính quyền phải mua nước đưa về cho người dân. Bộ đội đóng tại đây cũng được huy động dùng xe chuyên dụng tiếp nước hỗ trợ.